Bình giảng khổ thơ 7, 8 trong bài thơ “Tây Tiến”

Tây Tiến là bài thơ nổi tiếng của Quang Dũng nói riêng, của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung, được sáng tác vào năm 1948. Thông qua niềm thương nỗi nhớ, cảm hứng lãng mạn của tác giả, bức tranh thiên nhiên miền Tây Tổ quốc hiện lên thật đa dạng về đường nét, phong phú về mầu sắc, rất gợi cảm và gần gũi với cuộc sống người lính. Nổi bật lên trên bức tranh núi rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ dữ dội vừa nên thơ ấy vẫn là hình ảnh những người lính Tây Tiến thật oai phong lẫm liệt, thật sang trọng hào hoa:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

áo bào thay chiếu, anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Vẻ đẹp lãng mạng của người lính Tây Tiến được thể hiện rất rõ qua những vần thơ:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dừ oai hùm

Những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, những người lính Tây Tiến phải đương đầu với muôn vàn khó khăn thiếu thốn, thường xuyên phải chống chọi với đói rét, bệnh tật. Những câu thơ trên gợi cho ta biết bao thương cảm. Những người lính bị sốt rét rừng hành hạ được tác giả phác hoạ bằng những nét độc đáo có phần kì lạ. Sống ở vùng rừng núi Tây Bắc hoang vu, họ bị bệnh sốt rét làm cho trụi tóc xanh da, thân hình tiều tuỵ: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”. Cũng có thể hiểu người lính phải cạo trọc đầu để thuận tiện hơn trong chiến đấu. Nhưng người ta thường hiểu theo cách thứ nhất. Đây là một hình ảnh hoàn toàn có cơ sở hiện thực. Chính Hữu trong bài Đồng chí cũng đã viết “Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi” và Tố Hữu trong bài Cá nước đã có những câu thơ rất hay:

Giọt giọt mồ hôi rơi

Trên má anh vàng nghệ

Anh vệ quốc quân ơi

Sao mà yêu anh thế!

Nhưng cách diễn đạt của Quang Dũng đã làm bật nổi được nỗi gian khổ của người lính và gây ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc. Biết bao nhiêu là khốc liệt được chứa đựng trong hình ảnh “không mọc tóc” và “quân xanh màu lá” ấy. Chỉ riêng sự tồn tại được trong hoàn cảnh dáng vóc ấy cũng đã là một chiến công phi thường rồi!.

Tuy nhiên, người lính ốm mà không yếu, vẫn giữ được nguyên vẹn vẻ hào hùng của họ: “dữ oai hùm, mắt trừng”. Với bút pháp lãng mạn, tác giả đã nhấn mạnh sự tương phản giữa ngoại hình và nội tâm, giữa hình thức có phần xanh xao tiều tuỵ vì bệnh tật với sức mạnh tinh thần mãnh liệt bên trong. Biết bao sự phẫn nộ và tư thế khí phách của người lính được chứa đựng trong hai từ “mắt trừng” rất giản dị đó. Và cũng oai phong lẫm liệt biết chừng nào được thể hiện trong hình ảnh “dữ oai hùm” ấy – oai hùm là oai hổ, chúa sơn lâm thường ngự trị, tung hoành ngang dọc nơi chốn rừng thiêng:

Trong hang tối mắt thần khi đã quắc

Là khiến cho mọi vật đều im hơi

Ta biết ta là chúa tể cả muôn loài

Giữa chốn thảo hoa không tên không tuổi

(Thế Lữ)

Cho nên có thể nói “dữ oai hùm” của người lính Tây Tiến được tác giả mô tả ở đây là nhằm để thích ứng với sự chế ngự một hoàn cảnh khắc nghiệt dữ dội và làm cho quân thù khiếp sợ. Như thế là người lính Tây Tiến ngay trong khó khăn, thiếu thốn, bệnh tật, ốm đau cũng đã bộc lộ phẩm chất lẫm liệt hào hùng và rất đẹp.

Nhưng có lẽ người lính còn đẹp ở một phương diện khác của phẩm chất tinh thần. Đằng sau cái vẻ “dữ oai hùm” còn ẩn giấu những tâm hồn, những trái tim giàu khát khao yêu thương, giàu lãng mạn, mộng mơ: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Ban ngày họ phải hành quân gian khổ, thường xuyên tiếp xúc với thần chết mà đêm về họ đã mơ những giấc mơ dịu êm như thế đó. Hình ảnh “dáng kiều thơm” làm ta gợi nhớ tới những hình ảnh thơ tả người đẹp rất độc đáo và nổi tiếng của Bích Khê:

Nàng ở mô? Xiêm áo bỏ đâu đây?

Đến triển lãm cả thân hình kiều diễm

Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm?

Nàng là hương hay nhan sắc lên hương?

Mắt ngời châu rung ánh sáng nghệ thường

Lệ tịch lại sắp tuôn hàng đũa ngọc

Đêm u huyền ngủ mơ trên mái tóc

Vài chút trăng say đọng ở làn môi

(Tranh loã thể)

Chính những giấc mơ thấm đượm màu sắc lãng mạn hào hoa đó đã nâng đỡ tinh thần của người lính Tây Tiến vượt qua những khó khăn thử thách khốc liệt tương chừng như không thể chịu đựng nổi. Đây là vẻ đẹp rất đáng yêu, đáng tự hào của người lính Tây Tiến nói riêng và anh bộ đội Cụ Hồ nói chung. Nguyễn Đình Thi cũng đã từng viết:

Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội

Mỗi bước đường mỗi bước hy sinh

Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu

Vì thế không nên có cái nhìn sai lầm cho người lính Tây Tiến còn những “mộng rớt, mộng rơi” mà phải xem đó là “mộng mơ” đầy cảm hứng lãng mạn của những người lính Hà Thành tài hoa thanh lịch.

Ngòi bút Quang Dũng không chỉ hướng về lãng mạn hào hoa mà còn hướng về phía, lãng mạn hào hùng, cảm xúc bi tráng. Người lính Tây Tiến đã ra đi chiến đấu với tư thế, khí phách tuyệt đẹp:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Hình ảnh thơ đã trực tiếp nói đến những hy sinh mất mát. Thơ ca kháng chiến nhìn chung ít nói đến mất mát hy sinh. Vì vậy đây là một đoạn thơ khá hiếm hoi. Quang Dũng trực diện nói đến cả cái chết, không phải một cái chết mà là nhiều cái chết: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”. Riêng câu thơ này gợi cho ta cảm giác có cái gì đó hơi bi thảm. Chẳng phải chi vì lời thơ nói đến nấm mồ mà vì những nấm mồ nằm rải rác nơi miền viễn xứ ở một vùng rừng núi hoang vu heo hút. Nó dễ làm ta nhớ đến những câu thơ tả cảnh chiến địa trong Chinh phụ ngâm qua bản dịch của Đoàn Thị Điểm:

Hồn tử sĩ gió ù ù thổi

Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi

Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn

Nhưng sang câu thứ hai “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” đã nâng ý thơ lên thành bi tráng, bi hùng. Chất bi hùng ấy được vút lên từ âm điệu câu thơ gọi lên một thái độ tình cảm thật dứt khoát, thật mạnh mẽ.

Vì lí tưởng độc lập tư do cao quý, người chiến sĩ Tây Tiến sẵn sàng hy sinh một cách thanh thản không hề luyến tiếc “đời xanh”, biết bao tương lai đầy hứa hẹn của tuổi trẻ được chứa đựng trong hai chữ “đời xanh” ấy. Tố Hữu cũng đã có những câu thơ nổi tiếng ca ngợi vẻ đẹp của tuổi trẻ:

Hai mươi tuổi tim đang dào dạt máu

Hai mươi tuổi, hồn quay trong gió bão

Gân đang săn và thớ thịt căng da

Đời mặn nồng hứa hẹn biết bao hoa

Hai câu thơ trên của Quang Dũng đã làm toả sáng một phương châm, một triết lí, lẽ sống rất đẹp của tuổi trẻ thời ấy “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Với triết lí đó, người lính sẵn sàng chịu đựng mọi hy sinh, mọi thiệt thòi, kể cả cái chết “áo bào thay chiếu anh về đất”. Câu thơ trước hết gợi được cái không khí rất thực của người lính Tây Tiến. Hoàng Lộc cùng đã viết về việc khâm liệm người chiến sĩ:

Ở đây không gỗ ván

Vài anh trong tấm chăn

Của đồng bào Cửa Ngăn

Tặng tối ngày phân tán

Nhưng dẫu sao người lính trong bài thơ của Hoàng Lộc cũng còn có một tấm chăn còn người lính của Quang Dũng phải “áo bào thay chiếu”, nghĩa là “Tử sĩ nhìn xuống không đủ manh chiếu để liệm”. Song để xoá đi cái bi thương, tạo nên niềm an ủi, trân trọng đối với người lính, Quang Dũng phủ lên thi thể người lính một cái nhìn lãng mạn bằng hình ảnh “áo bào”. Đây là một sáng tạo từ ngữ độc đáo của Quang Dũng. Nó vừa miêu tả chiếc áo người chiến sĩ chiến đấu, khi chết thay chiếu để chôn vừa gợi về chiếc chiến bào vua ban cho người tráng sĩ ngày xưa làm cho người lính Tây Tiến trở nên sang trọng hơn:

Giã nhà đeo bức chiến bào

Thét roi Cầu Vị ào ào gió thu

Với tấm “áo bào” ấy, người chiến sĩ đã thanh thản “về” trong lòng đất mẹ thiêng liêng ấm áp vĩnh hằng.

Hình ảnh người chiến sĩ trong câu thơ này làm ta nhớ tới hình ảnh An Dương Vương rẽ nước về với Long Vương hay chàng trai làng Gióng cưỡi ngựa bay về với Thiên Vương sau khi đã dẹp xong giặc Ân. Đúng là một hình ảnh thơ đầy sức mạnh ngợi ca. Biết bao yêu thương và trân trọng của đất nước, của đồng đội được chứa đựng trong hình ảnh thơ ấy.

Người lính Tây Tiến qua cảm hứng lãng mạn của Quang Dũng đã mang được cái tư thế hiện ngang như người tráng sĩ thời Chiến quốc hay người chinh phu trong Chinh phụ ngâm… ra đi quyết không trở về, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng:

Gió hiu hiu hề, nước sông Dịch lạnh tê

Tráng sĩ ra đi quyết không trở về

Người lính của Quang Dũng cũng đã kế tục và phát huy được phẩm chất và vẻ đẹp lí tưởng của người chiến sĩ cộng sản trong văn học cách mạng 1930 – 1945. Vì lí tưởng cộng sản cao đẹp, người chiến sĩ sẵn sàng chấp nhận mọi cái chết, thậm chí là cái chết bi thương:

Dù phải chết, chết một thời trai trẻ

Liệm thân tàn bằng một mảnh chiếu con
Rồi chôn xương rục thối dưới chân cồn

Hay phơi xác cho một đàn quạ rỉa

(Tố Hữu)

Và họ đã thanh thản đi vào cái chết như người nông dân vui vẻ trở về nhà sau khi đã cày xong thửa ruộng:

Vui về chết như cày xong thửa mộng

Lòng khoẻ nhẹ anh dân quê sung sướng

Ngả mình trên liếp cỏ ngủ ngon lành

Và trong mơ thơm ngát lứa đồng xanh

Xuân nhẹ đến trên môi cười hy vọng

(Tố Hữu)

Người lính của Quang Dũng là biểu tượng của người chiến sĩ đi tiên phong trong sự nghiệp giải phóng đất nước: “Là con người đẹp nhất của thời ta:

Đoàn vệ Quốc Quân một lần ra đi

Là có sá chi đâu ngày trở về

Ôi ta biết cám ơn ai đã sáng tạo ra lên người chiến sĩ

Vang tự hào của thể kỉ 20

Thước vàng đo mọi giá trị trên đời

Người lính Tây Tiến chiến đấu cho một lí tưởng đẹp nhất của cuộc đời. Đó là độc lập của Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân. Cho nên, anh dù có phải nếm trải mọi khó khăn thiếu thốn, thậm chí cả cái chết nhưng các anh không hề nhỏ bé bi thương, trái lại vẫn oai hùng dữ dội. Các anh dù ngã xuống cũng ngã xuống trong tiếng nhạc của núi sông “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Câu thơ như tiếng kèn bi tráng tiễn đưa linh hồn người lính về nơi đất mẹ vĩnh hằng với bao tiếc thương, ngậm ngùi, bi phẫn. (Liên hệ nhũng câu thơ viết về sự hy sinh của những người vì nước, vì dân):

Thơm rất xa theo gió thoảng hương trầm

Cây trầm đẹp như cuộc đời chiến sĩ

Sống tươi tốt bao niềm tin bình dị

Thân hy sinh thơm đất thơm trời

(Nấm mộ và cây trầm – Nguyễn Đức Mậu)

Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đà hoá núi sông ta

(Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm)

Chỉ bằng tám câu thơ mà Quang Dũng đã mô tả được khá đầy đủ về chân dung tập thể người lính Tây Tiến từ diện mạo đến tâm hồn, khí phách thái độ trước cái chết cũng như vẻ hào hoa rất Hà Nội của họ. Đoạn thơ xứng đáng là một tượng đài bằng ngôn ngữ đã bất tử hoá phẩm chất anh hùng của anh bộ đội Cụ Hồ trong cuộc kháng chiến chống Pháp rất đỗi gian khổ mà vui tươi hào hùng.

(Theo Nguyễn Thị Thanh Huyền, giáo viên dạy văn tại trường THPT chuyên Hùng Vương – Việt Trì – Phú Thọ)

Bài liên quan

“Bác ơi!” – Bản điếu văn bi hùng

Ngày mùng hai tháng chín năm một chín sáu chín, chủ tịch Hồ Chí Minh…

Bình giảng bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm

Nguyễn Khoa Điềm thuộc lớp thi sĩ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Những…

Bình giảng bài thơ “Sóng”

Nếu như Xuân Diệu đã từng thổn thức vì tình yêu, dâng hiến trọn đời…

Bình giảng bài thơ “Việt Bắc”

Bằng những vần thơ lục bát ngọt ngào mang đậm màu sắc ca dao dân…

Bình luận

Địa chỉ email của bạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *