Phân tích vẻ đẹp tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống của Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân
Hướng dẫn
Phân tích vẻ đẹp tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống của Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân
Kim Lân là một nhà văn của làng quê. Văn của ông không chỉ thành công trong việc xây dựng nhân vật mà còn miêu tả một cách chân thực nhất về nạn đói 1945 trong truyện ngắn Vợ Nhặt. Và đặc biệt, còn khắc họa về những tác động của nạn đói lên nhân vật của mình, cụ thể ở đây là Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Trong nạn đói ấy con người Việt Nam vẫn lấp lánh vẻ đẹp của tình người và cả niềm tin vào cuộc sống.
Nạn đói 1945 được Kim Lân miêu tả chân thực đến đau thương “cái đói đã tìm đến xóm ngụ cư của mẹ con Tràng. Buổi sáng ra đường đã thấy mấy cái xác bốc mùi hôi thối, có những người đói nằm dài trên đường trưa về thì họ đã chết. Hôm nào chẳng vậy phải đến ba bốn cái thây nằm trên đường. trên cao những tiếng quạ kêu thật thảm thiết “. Có thể nói tử thần đang bủa vây nơi đây.
Trước hết, Tràng được thể hiện trong truyện đó là một anh Tràng có ngoại hình xấu xí, có đôi mắt gà gà, cùng tấm lưng to như lưng gấu. Anh làm nghề kéo xe thuê, anh thường kéo xe gạo lên tỉnh, có hôm anh đang kéo thì thấy mấy cô đang chơi với nhau nhặt nhạnh những hạt thóc vương vãi trên đường thì anh liền ngẫu hứng hò một câu:
“ có ăn cơm trắng với giò này
Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”
Không ngờ trong số đó có một cô gái ra đẩy xe với anh và cười tít. Chuyện cũng được bắt đầu từ đây, Sau chuyện đó, có lần anh đang ngồi uống nước thì thị chạy tới, trông thị khác lắm. “ cái mặt gầy sọp lại nhìn như cái lưỡi cày. Thị như hiện thân của cái đói. Thế rồi thị đòi ăn kêu Tràng hôm trước nói dối, thị ăn liền bốn bát bánh đúc”. Anh Tràng tuy thế nhưng cũng rất hào phóng, thị ăn xong thì liền theo tràng về nhà.
Vẻ đẹp tình người được thể hiện rõ nhất trong vợ nhặt, thị xuất hiện thật xấu và ghê gớm. Kim Lân đã cho Thị một sáng vẻ chẳng khác nào hiện thân của cái đói, gầy gò “ mặt nhu lưỡi cày”. Cái đói chính là nguyên nhân làm cho Thị trở nên mất đi vẻ duyên dáng, trở nên chỏng lỏng. Nghe anh TRàng tán gẫu thì tin ngay, chạy ra đẩy xe bò với anh. Gặp lại thì chẳng ngại gì rồi sà xuống đòi ăn một lúc 4 cái bánh đúc, ăn xong còn lấy đũa quẹt ngang miệng, có lẽ do thị đói quá cho nên cũng chẳng thể giữ được ý tứ, sự dịu dàng của một cô gái. Thị cũng chẳng biết đi đâu nữa, Thị theo Trafg về nhà, thị nghĩ mình sẽ được sung sướng nhưng khi về đến lại vỡ lẽ ra, mặt sầm lại nhưng vẫn chấp nhận ở lại. Đó chính là tình người đáng quý, thấy người ta nghèo đói nhưng vẫn không bỏ đi mà nương tựa vào nhau để sống.
Còn về phần bà cụ Tứ, bà là một người mẹ giàu đức hi sinh cao cả. Cho dù ở cái tuổi xế bóng chiều nhưng bà vẫn đi làm kiếm chút tiền để đối mặt với nạn đói. Khi trở về, bà thấy Tràng dắt theo một người đàn bà lạ thì bà cụ giật mình ngạc nhiên hỏi không biết phải con cái Đục không. Nhưng khi đã hiểu rõ được sự tình rồi thì cụ chỉ biết quay mặt dấu hàng nước mắt bởi cụ nghĩ tới cảnh đói mà lại thêm miệng ăn nhưng rồi cụ cũng an ủi bằng việc dù sao con mình cũng có vợ. Tình thương người trong cụ dâng trào, thương con trai rồi ca con dâu. Cụ chỉ biết nói “ thôi chúng mày đã phải duyên phải kiếp với nhau thì u cũng mừng”.
Tình thương đó được thể hiện rõ nhất khi cụ chấp nhận thị và khuyên răn hai vợ chồng không ai nghèo ba họ không ai khó ba đời…để động viên an ủi con mình và vẫn hy vọng có tương lai sáng rạng hơn.
Qua đây, chúng ta có thể khẳng định ngay cả trong nạn đói thì nhân dân ta vẫn cứ yêu thương đùm bọc lấy nhau, lá lành đùm lá rách. Trước thực tại đau khổ và chết chóc, họ không thôi nhìn về tương lai với niềm tin đổi đời và sự thật ở cuối tác phẩm đã lóe lên một con đường đổi mới làm tác giả muốn nhắc tới. Hình ảnh về lá cờ đỏ sao vàng như thể hiện được quy luật tới với cách mạng của những người dân Việt.