Phân tích Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân)
Hướng dẫn
Phân tích Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân)
Khát khao cống hiến cho nghệ thuật, khát khao đi tìm và thể hiện những cảm giác mạnh mẽ, dữ dội, cộng với chất nghệ sĩ ưa phóng túng, tự do đã thúc đẩy Nguyễn Tuân đến với sông Đà. Mỗi tác phẩm của ông là một bài ca về cái đẹp của cuộc sống, của con người, với tư tưởng, tình cảm gắn bó với quê hương đất nước. Có thể khẳng định rằng với Người lái đò sông Đà, ngòi bút của Nguyễn Tuân đã đạt đến độ chín mới về tư tưởng và nghệ thuật.
Người lái đò sông Đà trước hết là một tác phẩm viết về một con người và một dòng sông. Bằng sự tiếp cận, quan sát và khả năng mô tả cùng với một kho chữ nghĩa vô cùng giàu có, chuẩn xác, Nguyễn Tuân đã dựng lên những bức tranh hết sức sống động, những hình tượng kì vĩ giàu sức hấp dẫn trong thiên tùy bút độc đáo này.
Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, con sông Đà thực sự trở thành một loài thuỷ quái khổng lồ. Tiếng gầm gào của nó qua những con thác dữ, từ xa nghe đã dễ sợ: “tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại nhừ là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”. Khi đến gần, tiếng nó bỗng “rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Con thuỷ quái không chỉ hung hãn. Nổ còn hết sức xảo quyệt. Trong cuộc vật lộn với ông lái đò, nó đã trổ ra đủ mưu ma chước quỷ để lừa người ta vào thế trận đã bày sẩn và hướng người ta vào cửa tử. Chỗ ngoặt sông thì đánh phục kích. Dụ được vào sâu thì đánh khuýp vu hồi. Giáp lá cà thì giở đủ ngón hiểm ác: đòn âm, đòn dương, đá trái, thúc gối, túm thắt lưng, lật nửa người, bóp chặt hạ bộ,… Vừa đánh vừa hò la vang trời dậy đất để áp đảo tinh thần đối phương,…
Nhưng vượt qua được con thác dữ thì sông nước lại trở nên rất đỗi êm ả thanh bình. Nguyễn Tuân gọi thế là tính cách trữ tình của con sông Đà. Sông Đà lúc này lại như một tiên nữ giáng trần. Nó “tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo”. Đẹp biết bao khi được ngắm nhìn những làn mây mùa xuân bay trên sông Đà. Nước sông Đà cũng thay đổi theo mùa: mùa xuân là dòng xanh ngọc bích, mùa thu thì lừ lừ chín đỏ như da mặt người say rượu… Cảm hứng dạt dào, nhà tuỳ bút cũng muốn trở thành thi sĩ. Ồng thấy “lai láng thêm cái lòng muốn đề thơ vào sông nước”. Từ những chạm khắc gân guốc, bạo khoẻ, từ những màu sắc gây ấn tượng dữ dằn, Nguyền Tuân chuyển sang những đường nét thanh thoát, dịu dàng thơ mộng. Ọuả thật nhiều khi ông đã đạt tới khả năng gợi tả của ngôn ngữ thơ, nghĩa là nói được những điều khó nói bằng văn xuôi: ấy là cái mà ông gọi là “màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”” – thoáng hiện lên trên sóng nước sông Đà ; ấy là cái bâng khuâng ngẩn ngơ của dòng nước lững lờ trôi xuôi như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Có một cái gì tựa như nỗi thương nhớ mênh mang mơ hồ của thi sĩ Tản Đà gửi “một người tình nhân chưa quen biết” – “Dải sông Đà bọt nước lênh bênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”. Nói chung qua cảm nhận của Nguyễn Tuân, chất thơ của phong cảnh sông Đà thường đậm đà màu sắc cổ điển: “Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiên sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Có thể gọi đấy là những dòng thơ văn xuôi của nhà tuỳ bút.
Trên cái nền của con sông vừa “hung bạo” vừa “trữ tình” ấy hiện lên lừng lững hình tượng người lái đò sông Đà. Thực ra ông lái này chủ yếu xuất hiện trong cuộc vật lộn với một con thác dữ, nghĩa là ở cái phía hung bạo của sông Đà. Giả sử tác giả đặt ông trong khung cảnh khác – khung cảnh thơ mộng trữ tình – chắc hẳn ông sẽ trở thành một anh chàng Trương Chi si tình trong cổ tích. Nhưng ở đây, đối dầu với con sông dữ, với một loài thuỷ quái, ông lái đò nhất thiết phải trở thành một dũng sĩ kiên cường – một nhân vật sử thi trong thiên trường ca leo ghềnh vượt thác… Nói đến nhân vật của Nguyễn Tuân, không thể không lưu ý đến cách tiếp cận riêng của ông đối với con người. Ấy là cách tiếp cận từ phương diện tài hoa nghệ sĩ. Ở Nguyễn Tuân khái niệm này có một nghĩa rất rộng: không chỉ thu hẹp ở những người làm nghệ thuật như thi sĩ, hoạ sĩ hay đào nương, kép hát,… mà gồm bất cứ ai đã đẩy được cái công việc mình thường làm lên đến độ caọ siêu, trác việt, dù công việc ấy chỉ là uống trà, ăn phở, giã giò, giã cốm, thậm chí công việc của tên đao phủ chém đầu người… Ở đây, ông lái đò cũng được tiếp cận như vậy. Đúng là ông lái đò của Nguyễn Tuân. Lái đò như thế thì không còn là chuyện nghề nghiệp thông thường nữa mà đã sang hẳn phạm trù của nghệ thuật, nghệ sĩ – nói như tác giả – là “tay lái ra hoa”. Tất cả nghệ thuật của ông lái đò là nắm chắc “quy luật tất yếu của dòng nước sông Đà”. Làm chủ được quy luật thì có nghĩa là đạt tới tự do và nghệ thuật. Có điều đây là một quy luật hết sức khắc nghiệt. Chỉ một chút thiếu chính xác, một tích tắc thiếu bình tĩnh, loá mắt lơ tay là phải trả giá bằng sinh mạng của mình.
Để làm nổi bật tài nghệ của ông lái đò, Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một cuộc vượt thác của ông ta như là một viên tướng ngày xưa tiến vào một trận đồ bát quái được bố trí sẵn với rất nhiều cạm bẫy giăng ra hết vòng này đến vòng khác, mỗi vòng đều có những “viên tướng đá” nham hiểm, quái ác chờ sần và quyết tiêu diệt bằng được đối phương của mình. Ở đây Nguyễn Tuân lại phải vận dụng đến những hiểu biết về khoa học quân sự và về võ thuật để diễn tả: nào là đòn dương, đòn âm, đá trái, thúc gối, phục kích, vu hồi,… Nào là tuyến một, tuyến hai, cửa sinh, cửa tử,… Chỉ là chuyện một ông lái đò và một cái thác nước mà Nguyễn Tuân đã viết được những trang thật hấp dẫn mà người đọc cứ như được nhìn thẳng vào những thước phim quay cận cảnh, đặc tả với bao tình huống hồi hộp,… Viết được những trang như thế, phải có một trí tưởng tượng phong phú lắm, phải có một kho chữ nghĩa giàu có lắm và phải có một vốn tri thức thuộc nhiều lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật khác nhau. Nguyễn Tuân thường đã say một cái gì thì muốn quan sát, mô tả nó từ mọi mặt, mọi phía, nói cho đến sơn cùng thuỷ tận, dường như không muôn cho ai nói thêm được gì nữa. Con người này chủ trương uống rượu phải uống cả cấn (dĩ tận vi độ), văn của ông cũng muốn như thế. Và ông lái đò đã hiện lên như Nguyễn Tuân mong muốn: một con người tài hoa trí dũng tuyệt vời đã đánh bại được cái thác nước hung dữ nham hiểm, phá hết vòng vây này đến vòng vây khác “cưỡi lên con thác”, “nắm chặt lấy bờm sóng”, “phóng nhanh”, “lái xiết”, “đè sấn lên” luồng sóng này, “chặt đôi” luồng sóng khác, tránh cửa tử, lao thẳng vào cửa sinh, vượt qua trùng trùng ải đá “Vút vút cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước” để cuối cùng thoát hẳn ra ngoài con thác dữ.
Qua bài tuỳ bút, đặc biệt là qua đoạn tả cuộc vượt thác của ông lái đò, Nguyễn Tuân muốn nói với người đọc rằng: chủ nghĩa anh hùng đâu chỉ có ở nơi chiến trường. Nó ở ngay trong cuộc sống của nhân dân ta hằng ngày phải vật lộn với thiên nhiên vì miếng cơm manh áo. Và trí dũng tài ba không phải tìm ở đâu đâu, mà ở ngay những người dân lao động bình thường kia. Cuộc đời của ông lái đò vô danh nơi ngọn thác hoang vu khuất nẻo kia là cả một thiên anh hùng ca, là cả một pho nghệ thuật tuyệt.
Cảm ơn nhà văn Nguyễn Tuân đã cho chúng ta thưởng thức một công trình nghệ thuật đầy sáng tạo. Ngoài việc cung cấp cho chúng ta những kiến thức và tri thức về cuộc sống, về văn hóa và lịch sử, địa lí, về ngôn ngữ… tác phẩm còn là một khối kiến trúc thẩm mĩ độc đáo, giúp ta cảm thụ được cái đẹp một cách sâu sắc, cái đẹp của con người lao động người lái đò sông Đà. Nguyễn Tuân đích thực là một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con người lao động gian lao nguy hiểm nhưng đầy vinh quang.