Đề 17: Phân tích nhân vật ông hoạ sĩ trong Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long – Bài văn chọn lọc lớp 9
Hướng dẫn
Đề 17: Phân tích nhân vật ông hoạ sĩ trong Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long.
Bài làm
Có người đã nhận xét rằng Lặng lẽ Sa Pa là nơi hội tụ của những tấm lòng. Câu chuyện giản dị mà sâu sắc ấy kể vể những con người có tâm hồn trong sáng và trái tim ấm áp. Họ gặp nhau tình cờ và quyến luyến nhau bởi cái tình đằm thắm trong mỗi người. Trong cuộc hội ngộ ấy, ông hoạ sĩ là nhân vật để lại trong lòng ta những ấn tượng sâu đậm, bởi tính cách thâm trầm, sâu sắc, bởi những triết lí sâu xa về nghệ thuật. Ông chính là sợi dây liên kết các nhân vật trong câu chuyện.
Điều đầu tiên dễ nhận ra ở ông hoạ sĩ là một tình yêu, niềm say mê mãnh liệt với công việc. Dù tuổi đã cao, đến lúc được nghỉ ngơi nhưng ông vẫn say mê, năng nổ với nghề nghiệp của mình. Ông không bằng lòng với tất cả những gì mình đã làm được trong cuộc đời. Ông muốn vươn tới những giá trị vinh hằng. Khát vọng đó thôi thúc người nghệ sĩ ấy lên đường. Và hành trình đến với Sa Pa là hành trình ông đi tìm cái đẹp theo tiếng vẫy gọi, sự thôi thúc của con tim. Câu nói của ông hoạ sĩ già đã khiến cô kĩ sư trẻ xúc động “đối với một người khao khát trời rộng, việc dứt bỏ một tình yêu đôi khi lại cảm thấy nhẹ lòng”. Ông nói với cô gái trẻ mới bước vào ngưỡng cửa cuộc đời hay là tâm niệm với chính mình, bởi bản thân ông cũng là một người khao khát trời rộng? Có lẽ trong cuộc đời mình, cũng không ít lần ông từng mạnh dạn vứt bỏ nhũng tình yêu tầm thường, vô vị để đi tìm giá trị chân chính của cuộc đời.
Những khát vọng, những cảm hứng sáng tác bùng nổ trong ông khi ông bắt gặp anh thanh niên trên đỉnh Yên Sơn. Từ những ấn tượng được nghe trước đó qua lời giới thiệu của bác lái xe, đến khi tận mắt nhìn thấy “người con trai có tầm vóc nhỏ bé, nét mặt rạng rỡ” ông đã “xúc động mạnh“. Đó là sự xúc động của một người luôn khao khát đi tìm cái đẹp đã “bắt gặp được một điều thực ra ông vẫn ao ước được biết. Một nét thôi đủ khẳng định một tâm hồn, khơi gợi một ý sáng tác, một nét đủ là giá tri của một chuyến đi dài”.
Quả thực, khao khát chỉ thực hiện được khi người hoạ sĩ có những chiêm nghiệm từ thực tế. Không phải ngẫu nhiên mà tác giả đã rất nhiều lẩn để ông hoạ sĩ đối thoại với anh thanh niên. Tuổi đã cao nhưng trái tim nghệ sĩ của ông như được hồi sinh những nhịp đập sôi nổi. Ông nhận ra cuộc sống còn bao ý nghĩa, bao khát khao đang chờ đón người nghệ sĩ và anh thanh niên chính là sự hiện hữu của những khát khao ấy. Vì thế mà vừa nghe anh nói, ông vừa “bất giác hí hoáy vào cuốn sổ tì trên đầu gối”. Dường như chính bản thân hoạ sĩ cũng không biết ông vẽ anh thanh niên từ lúc nào. Những nét vẽ xuất phát từ trái tim, cảm xúc, sự trân trọng và tình yêu. Vẽ anh thanh niên, ông hoạ sĩ cảm thấy mình bất lực: “Người con trai ấy đáng yêu thật nhưng làm cho ông nhọc quá. Với những điều làm người ta suy nghĩ về anh. Và về những điều anh suy nghĩ trong cái vắng vẻ vời vợi hai nghìn sáu trăm mét trên mặt biển, cuồn cuộn tuôn ra khi gặp người”. Đó chính là nghịch lí của nghệ thuật: sự bất lực của nghệ sĩ trước tấm gương của cuộc đời hiện hữu, ngồn ngộn sức sống, tràn đầy nhiệt huyết ẩn bên trong sự giản dị mà ông không thể chuyển tải hết vào tác phẩm của mình. Chính cái giản dị đời thường – tưởng chừng là “cái chết của nghệ thuật” – lại là hạt ngọc quý mà không phải nghệ sĩ nào cũng nhận ra ánh sáng của nó. Những điều đó cho ta thấy sự nghiêm túc, trách nhiệm của người cầm bút. Với người nghệ sĩ già ấy, tuổi tác không làm nên kinh nghiệm, không đồng nhất với khả năng sáng tác. Ông luôn tâm niệm rằng “vẽ bao giờ cũng là một việc khó, nặng nhọc, gian nan”. Vì vậy, dù anh thanh niên làm ông thấy “khó nhọc” nhưng ông vẫn rất hạnh phúc. Đó là niềm vui của người nghệ sĩ chân chính gặp được đối tượng chân chính của nghệ thuật – cái mà ông đã khát khao đi tìm suốt cuộc đời. Chính những điều đó đã tạo nên cảm hứng sáng tác trong ông, làm sống lại trong ông những khát khao cống hiến và thôi thúc ông cầm bút. Những âm vang đẹp đẽ ấy đã ngân lên trong tâm hồn ông, lắng đọng lại trong tác phẩm nghệ thuật.
Những hành động, lời nói vô tư, suy nghĩ sâu sắc, thái độ chân thành, nhiệt huyết của anh thanh niên đã tác động mạnh đến suy nghĩ của người hoạ sĩ. Ông băn khoăn về những cái đã làm và những cái chưa làm, những cái ông dám nghĩ nhưng không dám làm, về mảnh đất Sa Pa “mà ônq quyết định sẽ chỉ đến và nghỉ ngơi giai đoạn cuối đời, mà ông yêu nhưng vần còn tránh“. Có thể nói những suy nghĩ của ông hoạ sĩ cũng chính là những tâm niệm nghệ thuật của nhà vãn Nguyễn Thành Long. Nhân vật ông hoạ sĩ là hoá thân bằng xương bằng thịt của một tuyên ngôn nghệ thuật của nhà văn.
Ông hoạ sĩ còn là người sống hoà đồng, chân thành. Trên chuyến xe Hà Nội – Lào Cai ấy, nơi nhữnơ con người xa lạ, lần đầu và cũng có thể là lần cuối gặp nhau, ông hoạ sĩ đã là người kết nối họ lại. Ông hoà mình với tất cả, dễ dàng thân thiết với mọi người. Ông cởi mở – cái cởi mở chân thành đến mức hồn nhiên ở một người lớn tuổi, từng trải, mang trong mình trái tim ấm nóng, chan chứa tình đời của một người nghệ sĩ nhạy cảm. Chính ông đã mang lại cho cô kĩ sư một niềm tin tưởng, gieo vào tâm hồn cô gái trẻ ấy niềm tin mạnh mẽ để bước vào đời. Ông tâm sự với cô những điều sâu xa, tế nhị “những điều mà người ta ít nghĩ tới hoặc giấu kín trong lòng”. Tình cảm của ông dành cho cô thật hồn hậu, nhân ái như tình cảm của một người cha với cô con gái nhỏ. Nó không chỉ dừng lại ở những tâm sự an ủi, động viên mà còn thể hiện qua những việc làm cụ thể: đưa cô đến tận tinh giao tận tay ông trưởng ti rồi xem qua chỗ ăn ở của cô. Những hành động, việc làm ấy chỉ có thể bắt nguồn từ một tình cảm chận thành.
Nhân vật ông hoạ sĩ già là một thành công nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Thành Long. Ông là hiện thân của con người luôn ý thức được vị trí, trách nhiệm của bản thân đối với công việc, với cuộc đời và với đất nước. Tâm hồn nghệ sĩ cho ông những sợi dây tinh nhậy để rung cảm trước những nét đẹp của cuộc đời, nhận ra chân giá trị của cái đẹp bắt nguồn từ chính cuộc sống đời thường, từ những con người giản dị. Hình ảnh ông cùng các nhân vật khác – những con người lặng lẽ làm nên một Sa Pa không lặng lẽ – đã để lại trong lòng độc giả những ngân vang sâu lắng.
BÙI THỊ NGỌC ANH
Lời nhân xét:
– Người viết có năng lực phân tích tốt. Phân tích nhân vật người họa sĩ, người viết đã xoáy sâu vào hai nét phẩm chất nổi bật: một con người có tình yêu, niềm say mê mãnh liệt với công việc và một con người sống hoà đồng, chân thành với mọi người xung quanh. Để làm rõ những nét phẩm chất đó của người hoạ sĩ, bài viết đã chú ý khai thác các chi tiết được coi là điểm sáng nghệ thuật, đặc biệt là những suy nghĩ của nhân vật. Ví dụ: “ Vẽ anh, ông thấy mình bất lực: “Người con trai ấy đáng yêu thật nhưng làm cho ông khó nhọc quá. Với những điều làm người ta suy nghĩ về anh. Và về những điều anh suy nghĩ trong cái vắng vẻ vời vợi hai nghìn sáu trăm mét trên mặt biển, cuồn cuộn tuôn ra khi gặp người”. Đó chính là nghịch lí của nghệ thuật: sự bất lực của nghệ sĩ trước tấm gương của cuộc đời hiện hữu, ngồn ngộn sức sống, tràn đầy nhiệt huyết ẩn bên trong một sự giản dị, mà ông không thể chuyển tải hết vào trong tác phẩm của mình. Chính cái giản dị đời thường – tưởng chừng là “cái chết của nghệ thuật ” – lại là hạt ngọc quý mà không phải nghệ sĩ nào cũng nhận ra ánh sáng của nó“.
– Lời văn trong sáng, giản dị, có những nhận định, đánh giá sâu sắc. Ví dụ: “Tình cảm của ông dành cho cô thật hồn hậu, nhân ái như tình cảm của một người cha với cô con gái nhỏ. Nó không chỉ dừng lại ở những tâm sự, an ủi, động viên mà thể hiện ở cả những việc làm cụ thể: đưa cô đến tận ti, giao tận tay ông trưởng ti rồi xem qua chỗ ăn ở của cô. Những hành động, việc làm ấy chỉ có thể bắt nguồn từ một tình cảm chân thành“.
Xem thêm Thay lời bé Thu kể lại kỉ niệm Thu gặp cha sau tám năm xa cách tại đây.
Theo hoctotnguvan.vn