Phân tích bài Mộ (Ngục trung nhật kí) của Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh bị bắt ngày 19 – 8 – 1942 tại phố Túc Vinh thuộc trấn Thiên Bảo, tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc). Sau đó, chính quyền Tưởng Giới Thạch giải Người ngược trở lại phía biên giới để giam giữ tại nhà ngục huyện Tĩnh Tây

Phân tích bài Mộ (Ngục trung nhật kí) của Hồ Chí Minh

BÀI LÀM 

   Hồ Chí Minh bị bắt ngày 19 – 8 – 1942 tại phố Túc Vinh thuộc trấn Thiên Bảo, tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc). Sau đó, chính quyền Tưởng Giới Thạch giải Người ngược trở lại phía biên giới để giam giữ tại nhà ngục huyện Tĩnh Tây; đúng ngày quốc khánh Trung Hoa cũ (10-10), Hồ Chí Minh lai bị bắt giam Thiên Bảo ngục”. Trên đoạn đường dưới 100 km từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo, Người phải đi bộ trong hai ngày. Tuy vậy, Hồ Chí Minh vẫn tức cảnh sinh tình, sáng tác ba bài thơ : “Tẩn lộ” (Đi đường); “Mộ” (Chiều tối); “Dụ túc Long Tuyền” (Đêm ngủ ở Long Tuyền); đó là chưa kể đến bài: “Sơ dáo Thiên Bản ngục” (Mới đên nhà lao Thiên Bảo). Trong các bài thơ sáng tác trên chặng đường này, bài “Mộ” được xem là áng thơ tuyệt bút.

                    Mộ

   Quyện điểu qui lâm tầm túc thụ
   Cô vân mạn mạn độ thiên không
   Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
   Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng

                                  (Hồ Chí Minh)
   Bản dịch:
   Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
   Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không
   Cô em xóm núi xay ngô tối
   Xay hết lò than đã rực hồng

   Qua vài nét chấm phá, hai câu đầu của bài thơ đã để lại một bức tiểu họa về cảnh thiên nhiên vùng sơn cước ở thời điểm “chiều tối”. Những buổi chiều như vậy đâu có thiếu trong văn chương cổ kim; nhưng nếu cảnh ấy qua cái nhìn của một Lý Bạch tiêu diêu, một Khuất Nguyên u uất chắc chắn sẽ đầy ảm đạm, thê lương. Còn ở đây, nếu không rõ xuất xứ, nhiều người sẽ lầm tưởng “Mộ” là bài thơ của thời thịnh Đường. Có người nhận xét cảnh thiên nhiên chiều tối trong bài “Mộ” có cái gì ấm áp, thậm chí có cả niềm vui nữa ở hình ảnh (chim bay vê tổ”‘, Vì nó sẽ được nghỉ ngơi trong tổ ấm của một vòm cây nào đó. “Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ’ khác với “Chim bay về tổ”. Nhìn lên trời, Hổ Chí Minh nhận ra vẻ mệt mỏi, uể oải của cánh chim. Cái nhìn ấy thể hiện tình cảm nhân ái bao la của Người đối với cảnh vật. Cánh chim trong thơ Bác gợi nhớ cánh chim qua ánh mắt nàng Kiều trong thơ của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du:                     ‘

   “Chim bay thoi thót về rừng”

   Cánh chim trong thơ Vương Bột, Lý Bạch, Nguyễn Du… thường bay về chốn vô tận, vô cùng, vô định, gợi cảm giác xa xăm, phiêu bạt, chia lìa Ngược lại, cánh chim trong thơ Hồ Chí Minh là cánh chim đang tìm về với sự sống thường ngày. Nhờ vậy, mà nó có hồn và nhuốm đầy tâm trạng hơn. Cùng với “Quyện điểu quy tâm” là “Cô vân mạn mạn”. Bài thơ dịch khá uyển chuyển, nhưng đã làm mất đi vẻ lẻ loi, trôi nổi, lừng lờ của đám mây. Câu thơ dịch: .         .

   “Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không” để khiến người đọc nghĩ đến cái nhìn của một du khách. Phải chăng, vì quá tin vào bản dịch mà ai đó nói cảnh thiên nhiên trong “chiều tối” là một cảnh vui. Hình ảnh “Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ” – tìm một chỗ ngủ tạm qua đêm, và chòm mây lẻ loi, trôi lửng lờ gợi một khung cảnh thiên nhiên hoang vẳng nhưng không ảm đạm, đượm buồn nhưng không thê lương, rộng lớn mênh mông nhưng đâu có “xanh trong thi vị”.. Cảnh ấy, tương đồng với tâm trạng của người bị giải, vẻ đẹp của bài thơ là ở chỗ: Tác giả không để lộ cái mệt mỏi, cô đơn của chính mình. Với Hồ Chí Minh, mọi nỗi buồn, niềm vui dường như đều gắn liền với dân tộc, nhân dân thà ít khi phụ thuộc vào cảnh ngộ riêng của Người.

   Thơ tứ tuyệt thường bất ngờ ở cữu chuyển, bất ngờ mà vẫn phải tự nhiên, hợp lí, liền mạch. Nổi bật lên trên không gian chiều tối, sâu lắng, tĩnh lặng là hình ảnh con người:

   Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
   Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng

   “Sơn thôn thiếu nữ’ dịch là “Cô em xóm núi” đứng trên binh diện nghĩa của từ thì không có gì sai. Nhưng câu thơ dịch đã không thể hiện được cái nhìn trân trọng của nhân vật trữ tình đối với con người; giọng điệu trang trọng của câu thơ nguyên tác không hiện diện trong lời thơ dịch (mà nhiều khi giọng điệu còn quan trọng hơn cả cái được miêu tả). Người phụ nữ đã nhiều lần có mặt trong thơ chữ Hán, nhưng phần lớn họ đều thuộc giới thượng lưu hoặc chí ít cũng gần gũi với giới thượng lưu. Không rõ trứớc Hồ Chí Minh đã có một “sơn thôn thiếu nữ” thực sự là người lao động bước vào thế giới của nàng thơ hay chưa? Chỉ biết rằng việc đặt hình ảnh “Sơn thôn thiếu  nữ’ ở vị trí trung tâm của bức tranh phong cảnh chiều tối đã làm cho bức tranh thiên nhiên trở thành bức tranh về cuộc sống con người. Sự chuyển đổi ấy thể hiện một khuynh hướng vận động của hình tượng thơ và quan điểm nhân sinh của Bác. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, Hồ Chí Minh cũng gắn bó với cuộc sống con người nơi trần thế đặc biệt là cuộc sống nhân dân lao động.

   Về mặt nghệ thuật, ở hai câu thơ kết, người đọc thấy nhà thơ dường như không tả, ngòi bút của Người chi ghi nhận một cách khách quan “Những liền trông thấy” trong cảnh chiều tối. Điệp ngữ liên hoài “ma bao túc” nối liền dòng thơ thứ ba với dòng thơ kết đã góp phần diễn tả được cái vòng quay liên tục, đều đặn của động tác xay ngô. Điều đáng tiếc là bài thơ dịch đã không thể hiện đựợc điều ấy. Để cảm thụ giá tri liết diêu của câu thơ, không thể không tiếp xúc với phần phiên âm chữ Hán. Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc. Vòng quay của chiếc cối chấm dứt, công việc kết thúc (bao túc ma hoàn) thì lò than cũng vừa đỏ (lô (dĩ hồng), ánh lửa đỏ ấm nồng xuất hiện thật bất ngờ, tỏa sáng vào đêm tối. Tài hoa của Hồ Chí Minh là ở chỗ tả cảnh thiên nhiên, tả cả chiều tối mà người không phải dùng đến một tính từ chỉ thời gian nào. Người dùng ánh lửa đỏ để thể hiện thời gian đã tối (trời có tối, lò mới rực hổng). Hơn nữa người đọc còn cảm nhận được bước đi của thời gian từ chiều đến tối. Cố gái xay ngô từ khi trời còn ánh sáng; xay xong thì trời đã tối. Phải chăng Hồ Chí Minh đã có một phát hiện mới trong bút pháp tả thời gian. Rõ ràng, ngay cả khi tả cảnh chiều tối, thơ Hồ Chí Minh vẫn có sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng, Người đọc cảm thấy không hài lòng khi dịch giả thêm vào câu chuyện một từ “tối”. Nhìn bề ngoài việc thêm vào như vây có vẻ như vô thường,vô phạt; nhưng nghĩ sâu xa thì chính chữ ấy đã phá vỡ một quy luật vận động lớn trong thơ Hồ Chí Minh và không bộc lộ hết tài năng của Người, rất xứng đáng là thánh thứ hai mươi tám” của bài thơ. Trong “Ngục trụng nhật kí có bao nhiêu chữ “hồng” như vậy? Chữ “hồng”, là nơi hội tụ kết tinh ánh sáng của toàn bài, là hình ảnh của sự sống thường nhật và niềm vui lao động.

   Buổi chiểu tối rực ánh hồng ở bài “Mộ” là buổi chiều không dễ gì lặp lại lần thứ hai trong thơ, ánh hồng ấy không chỉ tỏa ra từ chiếc bếp lửa bình dị của một “sơn thôn thiếu nữ” mà chủ yếu được tỏa ra từ tấm lòng nhân ái, tinh thần lạc quan của Hồ Chí Minh. Niềm vui của chúng ta khi đọc “Mộ” nói riêng và thơ Bác nói chung là niềm vui của người được tiếp nhận ánh sáng của chất thép kì diệu thể hiện trong từng câu, từng chữ của bài thơ.

loigiaihay.com

 

Bài liên quan

Tìm hiểu về bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Tìm hiểu về bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm – Bài làm 1 Loading……
So sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều

So sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều

So sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều trong đoạn trích Chị em…
Phân tích tâm trạng nhân vật trữ tình trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu

Phân tích tâm trạng nhân vật trữ tình trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu

Phân tích tâm trạng nhân vật trữ tình trong bài thơ Vội vàng của Xuân…
Phân tích hai khổ thơ cuối bài Tràng Giang của Huy Cận

Phân tích hai khổ thơ cuối bài Tràng Giang của Huy Cận

Phân tích hai khổ thơ cuối bài Tràng Giang của Huy Cận – Bài làm…

Bình luận

Địa chỉ email của bạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *