Đề bài: Phân tích bài Ca dao hài hước.
Bài làm
I– NHỮNG KIẾN THỨC CƠ BẢN
Ca dao hài hước, châm biếm là những bài ca dao để giải trí hoặc phê phán những hiện tượng đáng cười trong cuộc sống. Cũng như truyện cười, vè, ca dao hài hước, châm biếm thể hiện tập trung các nét đặc sắc của nghệ thuật trào lộng Việt Nam như: đối lập, phóng đại, chơi chữ, ngoa dụ. Những bài ca dao hài hước đã chứng tỏ sự thông minh, tinh thần đấu tranh và lạc quan của người Việt Nam trong cuộc sống.
Khái niệm cái cười và cái đáng cười, tiếng cười hài hước có ý nghĩa mua vui, giải trí và tiếng cười châm biếm, phê phán xã hội đã được trình bày ở phần I – Những tri thức bổ trợ trong bài Tam đại con gà và Nhưng nó phải bằng hai mày trong sách này.
II- PHÂN TÍCH TÁC PHẨM
1. Đặc điểm về nội dung
Bài 1
Đây là tiếng cười tự trào (tự cười mình) mang ý vị hài hước, vui vẻ của người lao động trong cảnh nghèo. Lời đối đáp giữa chàng trai – cô gái về việc dẫn cưới và thách cưới có những điều lạ lùng. Cưới xin là những công việc quan trọng của một đời người nhưng ta hãy nghe họ nói với nhau những gì.
Bài ca có kết cấu hai vế đối đáp quen thuộc, vế đầu là lời chàng trai. Bằng lối nói khoa trưong, phóng đại, anh nói với nàng về lễ vật dẫn cưới mà mình lựa chọn để hỏi cưới nàng. Một loạt biện pháp đối lập : tự nêu ra, nâng lên rồi lại tự phủ định:
Cưới nàng, anh toan dẫn voi,
Anh sợ quốc cấm, nên voi không bàn.
Dẫn trâu, sợ họ máu hàn,
Dẫn bò, sợ họ nhà nàng co gân.
Miễn là có thú bốn chân,
Dẫn con chuột béo, mời dân, mời làng.
Chàng trai đã khéo chọn lí do rất họp lí để phủ định những đồ dẫn cưới cao sang, để tạo nên sự giảm dần : voi -> trâu -> bò -> chuột. Chẳng ai đi dẫn cưới bằng chuột. Nếu bình thường, người nghe có thể cho đây là lối nói mĩ tự, ba hoa hoặc coi thường bạn gái, nhưng nghe lời đối đáp của cô gái thì chúng ta hiểu rằng họ đã rất hiểu nhau.
Cô gái đáp lại cũng bằng lối đùa vui như thế, không mĩ tự, không tự đề cao mà cũng theo lối nói giảm dần : củ to -> củ nhỏ -> củ mẻ -> củ rím, củ hà. Cách nói vui đùa thể hiện ngay ở câu đầu :
Chàng dẫn thế, em lấy làm sang,
Nỡ nào em lại phá ngang như là…
Người ta thách lợn thách gà,
Nhà em thách cưới một nhà khoai lang.
Chàng trai dẫn cưới bằng thú bốn chân (chuột) đã lạ đời. Ở đây cô gái lại thách cưới bằng một nhà khoai lang thì có lẽ trên đời chưa từng có. Cô lại phân loại cả “nhà khoai” ấy thành các loại trong sự tính toán tỉ mỉ, kĩ càng. Củ to mời làng ; củ nhỏ mời họ hàng ; củ mẻ cho trẻ ăn ; củ rím, củ hà thì cho gà, lợn ăn. Đây là một chàng trai biết lo xa, biết tính toán và có trách nhiệm với nhà gái ; còn cô gái thì tỏ ra là một cô gái thật biết quán xuyến việc nhà, tằn tiện lo toan. Bài ca dao là tiếng cười vui, sảng khoái, cười cợt với cái nghèo của mình và của bạn. Họ không mặc cảm, tự ti khi nói ra cái nghèo của mình, và họ cũng tỏ ra bình thản, thông cảm với cái nghèo của bạn biết bao. Phải chăng khi hai người đối đáp xong bài ca, cả hai cùng cười vui giòn giã. Quả là người Việt Nam có tâm hồn thật khoẻ khoắn, lạc quan, dẫu trong cảnh ngộ nào cũng có thể tìm thấy cái lẽ vui sống một cách lành mạnh, khiến cho họ dường như không bao giờ bị đè bẹp bởi hoàn cảnh mà luôn đứng cao hơn hoàn cảnh.
Nghệ thuật gây cười của bài ca là nghệ thuật nâng cao – hạ thấp, lựa chọn sự vật phù hợp với lập luận của mình để đưa ra các chi tiết hài hước nhất, làm điểm nhấn tạo nên cao trào bật ra tiếng cười :
-Miễn là có thú bốn chân,
Dẫn con chuột béo, mời dân, mời làng.
– Bao nhiêu củ rím, củ hà,
Để cho con lợn, con gà nó ăn…
Thách cưới bằng khoai lang và còn phải lo cả củ rim, củ hà nửa thì thật nực cười. Thủ pháp gây cười là tạo nên chi tiết sinh động làm bật ra tiếng cười với chi tiết hài hước sinh động nhất.
Bài 2,3:
Hai bài ca dao này cùng có chung cảm hứng phê phán những người đàn ông yếu đuối, ươn hèn, vô tích sự. Nghệ thuật tạo dựng cái cười là biết đi vào khai thác những cái trái tự nhiên, trái với những quy luật của cuộc sống hằng ngày. Cái đáng cười là cái chứa đựng mâu thuẫn. Mâu thuẫn trong cái đáng cười này là lẽ ra những người đàn ông trong con mắt người đời, đặc biệt là trong xã hội phong kiến phụ quyền thì rất đỗi oai phong. Họ thuộc phái mạnh, luôn là chỗ dựa để người phụ nữ nương tựa (người phụ nữ xưa lấy chồng luôn mong mỏi được có chỗ dựa vững chắc, được “núp bóng tùng quân”).
Đã có bao câu ca lưu truyền mở đầu bằng hai chữ “làm trai” hàm ý tôn vinh bậc nam nhi:
-Làm trai quyết chí tang bồng
Sao cho tỏ mặt anh hùng mới cam.
-Làm trai cho đáng nên trai,
Xuống Đông, Đông tĩnh, lên Đoài, Đoài tan.
-Làm trai cho đáng nên trai,
Phú Xuân đã trải, Đồng Nai cũng từng.
Cùng hệ thống câu mở đầu, nhưng những bài ca dao sau đây lại chứa đựng ý nghĩa khác. Hai bài ca tạo nên tiếng cười trào phúng bởi chúng được xây dựng nhờ thủ pháp đối lập, nâng cao để hạ thấp, đột ngột tạo sự bất ngờ:
Làm trai cho đáng sức trai,
Khom lưng chống gối, gánh hai hạt vừng.
Những chữ đầu phản ánh chí làm trai oai hùng đầy kiêu hãnh. Phải chăng chàng trai đang khom lưng chống gối gánh vác son hà ? Nhưng không, chàng trai này lại “khom lưng chống gối” để “gánh hai hạt vừng”. Bài ca dao sử dụng thủ pháp nâng cao rồi đột ngột hạ thấp, khoa trương phóng đại tối đa, phê phán chàng trai yếu đuối về thể xác và chắc chắn yếu đuối cả về tinh thần.
Chồng người đi ngược về xuôi,
Chồng em ngồi bếp sờ đuôi con mèo.
Bài ca dao trên đã sử dụng thủ pháp đối lập giữa “chồng người” – “chồng ta”. Sự đối lập về không gian hoạt động “đi ngược về xuôi” <-> “ngồi bếp”. Ngồi bếp làm gì ? Chỉ rụt rè sờ đuôi con mèo -> có khác chi con mèo lười nơi xó bếp ? Qua đó tiếng cười hướng vào nhông “đức ông chồng” vô tích sự, lười nhác, ươn hèn, và còn rất nhiều những câu ca dao tương tự:
– Chồng người đi Hán về Hồ
Chồng em ngồi bếp rang ngô cháy quần.
– Chồng người lội suối trèo đèo
Chồng em cầm đũa đuổi mèo quanh mâm.
Bài 4:
Bài ca dao này phê phán những người đàn bà lười biếng, cẩu thả, bẩn thỉu, vô duyên. Có một điều đặc biệt là truyện cười dân gian hay lấy nhân vật nam giới làm đối tượng gây cười như tham lam, khoác lác, lười biếng, phụ nữ ít bị trở thành đối tượng gây cười. Ca dao hài hước đã làm nhiệm vụ cân bằng lại sự thiếu khuyết đó. Trong ca dao trào phúng, không ít lần người phụ nữ bị phê phán, chê cười bởi những thói xấu của họ. Thủ pháp phóng đại, cường điệu được sử dụng tạo ấn tượng phê phán rất mạnh :
Lỗ mũi mười tám gánh lông,
Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho.
Đèm nằm thì ngáy o o …
Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà.
Đi chợ thì hay ăn quà,
Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ cơm.
Trên đầu những rác cùng rơm,
Chồng yêu chồng bảo hoa thơm rắc đầu!
Tiếng cười cất lên phê phán những người đàn bà đoảng vị, đồng thời cũng có ý phê phán những người chồng mù quáng, quá yêu vợ mà không phân biệt được tốt – xấu, thực – hư.
Nếu tiếng cười ở bài 1 là tiếng cười tự trào, hài hước có mục đích mua vui, giải trí, thể hiện nét đẹp lạc quan, vui sống, chấp nhận cái nghèo, cảm thông chia sẻ với những người cùng cảnh ngộ thì ba bài ca dao hài hước sau không có ý nghĩa như thế. Ba bài này, tiếng cười có ý nghĩa phê phán cái xấu, cái chưa hoàn thiện trong nội bộ nhân dân. Tiếng cười có ý nghĩa giải trí, là hoa tặng cuộc đời, đồng thời là công cụ đấu tranh với những cái lạc hậu, bảo thủ trong nội bộ nhân dân và cả với kẻ thù của xã hội. Cái cười thường nhân danh cái đẹp để phê phán cái xấu vói hi vọng thanh lọc những điều chưa tốt đẹp và vươn tới sự hoàn thiện của cái tốt, cái đẹp.
2. Đặc điểm về nghệ thuật
-Bốn bài ca đều thành công nhờ sự tạo dựng tình huống gây cười, hàm chứa các mâu thuẫn :
+ Việc có ý nghĩa trọng đại như cưới xin <-> với đồ dẫn cưới có tính chất đùa vui (bài 1).
+ Người đàn ông lẽ ra phải mạnh mẽ, giỏi giang <-> với người đàn ông lười nhác, ươn hèn, yếu ớt (bài 2) ; đối lập chồng người <-> chồng ta (bài 3).
+ Người đàn bà lẽ ra phải duyên dáng, sạch sẽ <-> với người đàn bà cẩu thả, luộm thuộm, vô duyên ; vợ xấu <-> chồng cho là đẹp (bài 4).
-Biện pháp phóng đại, khoa trương được sử dụng ở cả bốn bài ca :
+ Dần cưới bằng chuột, bằng khoai rím, khoai hà,… (bài 1).
+ “Khom lưng chống gối, gánh hai hạt vừng…” (bài 2).
+ “Lỗ mũi mười tám gánh lông…” ; “Đêm nằm thì ngáy o o…” (bài 4).
-Biện pháp “nâng cao hạ thấp” tạo sự bất ngờ khiến tiếng cười vang lên giòn giã (bài 1, 2).