Triết lý sống trong Hồn Trương Ba, da hàng thịt – Bài làm 1
Từ sự so sánh về quan điểm triết lý giữa truyện cổ dân gian “Hồn Trương Ba, da Hàng thịt” và vở kịch cùng tên của Lưu Quang Vũ, bài viết đã nêu lên những nét mới, rất có ý nghĩa trong tác phẩm của nhà soạn kịch nổi tiếng này. Nếu cốt truyện dân gian chỉ đơn giản đề cao, tuyệt đối hoá vai trò của linh hồn đối với thể xác, thì đến vở kịch của Lưu Quang Vũ, vấn đề đã được ông đào sâu, mở rộng và phát triển hơn rất nhiều. Ông có quan niệm khác về mối quan hệ giữa linh hồn và thể xác – đó là mối quan hệ hữu cơ, tác động lẫn nhau. Hơn nữa, ông còn mở rộng tầm triết lý sang cả những vấn đề nhân sinh khác, như vấn đề xung đột giữa nhu cầu tự nhiên và nhân cách, vấn đề đấu tranh trong bản thân mỗi con người để hoàn thiện nhân cách làm người, v.v.. Vở kịch của Lưu Quang Vũ, vì thế, không chỉ là thành quả to lớn của nền kịch nói hiện đại Việt Nam, mà còn là một đóng góp đặc sắc của ông vào quan niệm triết lý nhân sinh nói chung.
Truyện cổ dân gian: Ngày xưa, có một người tên là Trương Ba, người còn trẻ tuổi nhưng đánh cờ tướng rất giỏi. Nước cờ của anh dễ thường thiên hạ không có người nào địch nổi. Bao nhiêu giải cờ trong những hội hè mùa xuân đều về tay anh. Tiếng đồn vang khắp nước, sang đến tận Giang Nam. Buổi ấy, ở Trung Quốc, có ông Kỵ Như cũng nổi tiếng cao cờ. Khi nghe tiếng Trương Ba, Kỵ Như liền khăn gói sang Nam tìm đến nhà địch thủ. Hai người đọ tài nhau trong mấy ván vẫn không phân thua được. Nhưng đến ván thứ ba, Trương Ba dồn Kỵ Như vào thế bí. Thấy đối phương vò đầu suy nghĩ, Trương Ba kiêu hãnh bảo:
– Nước cờ này dù có Đế Thích xuống đây cũng không thể gỡ nổi.
Bấy giờ Đế Thích là thần cờ ở thiên đình, bỗng nghe câu nói hỗn xược của Trương Ba xúc phạm đến mình, liền cưỡi mây xuống trần định cho y biết tay. Trương Ba và Kỵ Như đang đánh, chợt có một ông cụ già đến ngồi bên cạnh bàn cờ. Ông cụ thủng thỉnh mách cho Kỵ Như mấy nước. Tự nhiên, bên Kỵ Như cờ bại thành thắng. Trương Ba cau có, trong bụng tức giận ông già ở đâu đến làm cho mình lâm vào thế bí. Nhưng nhìn thấy ông cụ râu tóc trắng xóa, mặt mũi không có vẻ là người trần tục, chợt hiểu, liền sụp xuống lạy mà rằng: “Ngài hẳn là thần Đế Thích đây rồi, tôi người trần mắt thịt không biết, xin thứ lỗi”. Đế Thích cười bảo: “Ta nghe như nhà ngươi tự phụ là cao cờ nên xuống xem cho biết”. Trương Ba liền giữ Đế Thích lại mua rượu, giết gà, khoản đãi rất chu tất. Đế Thích tuy mới gặp cũng rất yêu mến Trương Ba. Thấy anh khẩn khoản muốn học nước cờ của mình, Đế Thích bảo anh: “Ta thấy nhà ngươi có bụng chân thành, vậy ta cho một bó hương này, mỗi lần cần đến ta thì thắp lên một cây, ta sẽ xuống”. Nói đoạn, cưỡi mây bay lên trời.
Từ đó, Trương Ba thỉnh thoảng lại dọn cờ mời thầy Đế Thích xuống chơi. Hai bên rất tương đắc. Nhưng một hôm, Trương Ba bị cái chết mang đi một cách đột ngột. Sau khi chôn cất chồng, người vợ dọn dẹp nhà cửa, thấy có nén hương giắt ở mái nhà, chị ta vô tình lấy xuống đốt lên cắm trước bàn thờ chồng. Ở thiên đình, thần Đế Thích nhận được tin bằng mùi hương liền xuống ngay. Thấy vắng mặt Trương Ba, Đế Thích ngạc nhiên: “Trương Ba đâu?”. Vợ Trương Ba sụt sịt: “Nhà tôi chết đã gần một tháng nay rồi!” – “Chết rồi! Sao lúc mới tắt thở không gọi ta xuống ngay, để đến bây giờ còn làm thế nào được nữa?”. Suy nghĩ một chút, Đế Thích lại hỏi thêm: “Trong xóm hiện nay có ai mới chết không?”. Vợ Trương Ba đáp: “Có một người Hàng thịt mới chết tối hôm qua”. Thần Đế Thích bảo chị ta dẫn mình đến nhà người Hàng thịt mà bảo: “Ta sẽ kiếm cách làm cho chồng nhà ngươi sống lại”. Nói xong, thần hóa phép rồi trở về trời.
Nói chuyện trong nhà người Hàng thịt lúc đó, mọi người đang xúm quanh linh sàng khóc lóc kể lể thì tự nhiên thấy người chết ngồi nhỏm dậy. Hắn ta vứt tất cả mọi đồ khâm liệm rồi chẳng nói chẳng rằng đi thẳng một mạch về nhà Trương Ba. Vợ Trương Ba thấy người Hàng thịt, biết là thần Đế Thích đã làm cho chồng mình sống lại, mừng rỡ đón vào. Giữa lúc đó, thì vợ con người Hàng thịt cũng chạy theo níu lấy chồng nhưng không những bị vợ Trương Ba giằng lại, mà ngay chính chồng mình cũng nhất định không chịu về. Đôi bên cãi cọ nhau, cuối cùng biến thành cuộc đấu khẩu rất kịch liệt. Xóm làng không biết phân xử ra sao, đành đem việc đó lên quan.
Quan cho đòi các nhà hàng xóm tới hỏi cung thì ai cũng bảo người sống lại đó là anh Hàng thịt. Nhưng chỉ có vợ Trương Ba thì nhất định nhận ra là chồng mình”. Quan hỏi rằng: “ Chồng chị ngày thường hay làm gì?”. Đáp: “chồng tôi chỉ thạo đánh cờ mà thôi”. Quan lại hỏi vợ người Hàng thịt: “chồng chị ngày thường hay làm nghề gì?”. Đáp: “chồng tôi chỉ thạo nghề mổ lợn”.
Nghe đoạn, quan sai đem một con lợn vào công đường cho anh Hàng thịt mổ, nhưng anh ta lúng túng không biết làm thế nào cả. Quan lại sai mấy người giỏi cờ vào tỉ thí với người Hàng thịt thì không ngờ, con người đó đi những nước cờ rất cao không ai địch nổi. Quan bèn phán cho về nhà Trương Ba.
Vì thế mới có câu “ Hồn Trương Ba, da Hàng thịt”.
Như vậy, truyện cổ dân gian Hồn Trương Ba, da Hàng thịt cũng quan niệm linh hồn phải có thể xác mới có chỗ trú ngụ và thể xác phải có linh hồn mới sống được, mới không rữa nát. Nhưng truyện cổ dân gian tuyệt đối hóa vai trò của linh hồn, coi nhẹ thể xác, nên khi Trương Ba mượn được thể xác của người Hàng thịt thì Trương Ba coi mình là Trương Ba 100% trong ý thức, trong tình cảm, trong tính cách, tuyệt nhiên không băn khoăn gì về hình dạng của mình. Vợ Trương Ba cũng vậy, khi thấy chồng là thân xác anh Hàng thịt nhưng tâm trí là Trương Ba – chồng mình – thì cũng không băn khoăn gì, nhận ngay và vui vẻ chung sống. Vợ anh Hàng thịt chỉ thấy đơn giản là hình dạng chồng mình sống lại nên đấu tranh khiếu kiện giành giật về cho mình, mặc dù anh ta đã nói anh ta là Trương Ba và chạy về nhà Trương Ba. Quan phủ sau khi kiểm tra kỹ năng mổ thịt lợn và nhất là kỹ năng chơi cờ thì quyết định xử ngay cho anh – Hàng – thịt – mang – hồn Trương Ba về với vợ Trương Ba. Phép thử mổ thịt có thể không chính xác, vì anh Hàng thịt nếu thích vợ Trương Ba có thể giả vờ mổ vụng; nhưng phép thử chơi cờ thì không thể sai được, vì nó thuộc về trí tuệ, về năng khiếu tính toán trong loại hình thể thao trí tuệ đặc biệt, cũng chính là một biểu hiện, một phương diện đặc sắc của linh hồn. Nó xác định, khẳng định linh hồn đó chỉ có thể là Trương Ba – người sinh thời chơi cờ rất giỏi.
Với cốt truyện ngắn gọn, mang một tư tưởng triết học có phần hơi đơn giản – đề cao, tuyệt đối hóa linh hồn, không để ý đến mối quan hệ giữa thể xác và linh hồn, tách rời linh hồn và thể xác, coi thể xác chỉ như cái túi đựng linh hồn – truyện cổ dân gian Hồn Trương Ba, da Hàng thịt phù hợp với quan niệm xưa, qua bao thế kỷ vẫn được kể, được yêu thích và không hề gây tranh cãi.
Nhưng ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, của con người và khoa học (sinh lý học và tâm lý học), tư tưởng triết học về con người cũng trở nên phong phú hơn, sâu sắc hơn và toàn diện hơn. Từ đó, tư tưởng triết học trong truyện cổ dân gian đã được Lưu Quang Vũ, nhà viết kịch tài năng của thời hiện đại, nhìn nhận lại và phát triển theo trình độ nhận thức của thời đại, theo yêu cầu nhân sinh và thẩm mỹ của thời hiện đại.
Tóm tắt vở kịch của Lưu Quang Vũ. “Nam Tào, Bắc Đẩu đang ngồi chấm người phải chết trong ngày. Đế Thích đến tỏ ý muốn xuống hạ giới để tìm người cao cờ đánh cho vui. Vì vội đi dự tiệc ở bên dinh Thái thượng nên Nam Tào gạch bừa tên Trương Ba.
Trương Ba đang chăm vườn và trò chuyện cùng vợ, cháu gái nội, con trai, con dâu thì Trưởng Hoạt đến chơi cờ. Đế Thích xuất hiện, giúp Trưởng Hoạt gỡ thế cờ. Đế Thích cho Trương Ba mấy nén hương và bảo nếu cần thì thắp một nén là Đế Thích xuống, thắp ba nén thì có thể lên thiên đình gặp Đế Thích. Sau đó, Trương Ba thấy trong người khó chịu và chết.
Nam Tào, Bắc Đẩu và Đế Thích đang trò chuyện thì vợ Trương Ba lên (bà ta vô tình thắp ba nén hương cho chồng). Bà đòi trả mạng sống cho chồng. Nhân có anh Hàng thịt mới chết, thân xác chưa tan rữa, Nam Tào, Bắc Đẩu cho hồn Trương Ba nhập vào xác anh Hàng thịt để sống lại.
Gia đình người Hàng thịt đang ngồi bên quan tài thì người Hàng thịt đội nắp quan tài lên, đòi về nhà Trương Ba, không chịu ở lại nhà Hàng thịt. Vợ Trương Ba đến xem phép mầu nghiệm ứng để đón chồng. Lúc đầu, mọi người đều ngỡ ngàng nhưng hồn Trương Ba đã nói được những điều chỉ có Trương Ba xưa mới biết, nên vợ Trương Ba nhận chồng, Trưởng Hoạt nhận bạn. Hồn Trương Ba (trong xác anh Hàng thịt) về nhà Trương Ba.
Nhưng bà vợ băn khoăn vì thân xác chồng khác xưa nhiều quá. Bà cũng thắc mắc về việc chồng phải sang giúp chị Hàng thịt mổ lợn mặc dù vụng về.
Anh con trai thì hy vọng với sức vóc mới, bố có thể cùng đi buôn lậu với mình. Hồn Trương Ba đã tát con với sức mạnh của cánh tay anh Hàng thịt.
Lý trưởng vào bắt hồn Trương Ba phải về nhà Hàng thịt. Anh con trai hối lộ, Lý trưởng xử: ban ngày ở nhà Trương Ba, đêm về nhà Hàng thịt. Anh con trai lại có lời, Lý trưởng cho phép Trương Ba chỉ phải ở nhà Hàng thịt đến nửa đêm thì được về.
Trời đã khuya, hồn Trương Ba giúp chị Hàng thịt mổ lợn, pha thịt xong, chuẩn bị về thì chị ta giữ lại mời rượu rồi mời ở lại. Hồn Trương Ba lúc đầu định xuôi theo nhưng đã đấu tranh tư tưởng, gỡ tay chị ta, về nhà.
Trưởng Hoạt sang phê phán Trương Ba bắt đầu đổi tính: uống rượu, đòi ăn ngon, nước cờ đi cũng khác.
Lý trưởng lại đến sách nhiễu. Cháu gái không nhận ông, người con dâu cũng than phiền bố chồng thay đổi.
Một cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác người Hàng thịt diễn ra; qua đó, xác người Hàng thịt khẳng định thế lấn tới của y đối với hồn Trương Ba.
Hồn Trương Ba đốt một nén hương gọi Đế Thích xuống giải thoát cho mình. Lúc đó, cu Tỵ nhà hàng xóm bị ốm nặng, sắp chết. Đế Thích bảo hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tỵ. Trương Ba từ chối, xin cho cu Tỵ sống, còn mình xin trả lại xác cho người Hàng thịt và chấp nhận cái chết.
Hồn Trương Ba nhập vào màu xanh cây vườn trò chuyện với vợ”.
Trước hết, Lưu Quang Vũ có kế thừa tư tưởng của truyện cổ dân gian. Ông cũng nhấn mạnh vai trò cao hơn của linh hồn so với thể xác. Trương Ba khi sống lại trong thân xác anh Hàng thịt thì nhận biết mình là Trương Ba (dựa vào ký ức, tình cảm và ý thức của hồn Trương Ba) và về ngay nhà mình (nhà Trương Ba). Vợ Trương Ba, sau khi kiểm tra ký ức của Trương Ba (mới), cũng nhận là chồng mình và giữ lại. Trưởng Hoạt, bạn của Trương Ba, khi kiểm tra ký ức của Trương Ba (mới) về tình bạn giữa hai người, cũng xúc động ôm hôn ngay bạn mình, mặc dù anh ta lúc này đã mang thân xác xa lạ. Cô con dâu thì lại càng thương cha chồng, mặc dù cha lúc này mang vóc hình ông Hàng thịt, vì điều chị ta tìm thấy ở ông là đức tính nhân hậu hệt như cha chồng xưa. Chị ta nói khá đúng, khá đủ, khá cơ bản về linh hồn: “Đã gọi là hồn làm sao có hình thù, bởi nó không là vuông hay tròn, mà là vui buồn, mừng giận, yêu ghét. Thầy vẫn dạy chúng con: Cái bề ngoài có quan trọng gì, chỉ có tấm lòng yêu thương và trí tuệ cao sáng của con người ta là đáng kể”.
Tuy nhiên, Lưu Quang Vũ không dừng lại ở đó.
Đầu tiên, hồn Trương Ba tỏ ra lạ lẫm, khó chịu với sự khác lạ của thân xác mình.
Rồi anh ta cảm thấy thân xác đó bắt đầu chi phối anh: cũng thích ăn tiết canh, uống rượu, nói to và có sức khỏe (không đau lưng, không hen nữa, tát con chảy máu mồm).
Khi ông Lý xử anh phải sang nhà chị Hàng thịt một số giờ trong ngày thì anh cũng tấm tắc khen ngon mấy món ăn của chị ta. Chị Hàng thịt thì biết linh hồn trong thể xác chồng mình không phải là của chồng mình mà là của Trương Ba, nhưng chị ta càng quý hơn vì nó tốt đẹp và dịu dàng, điều mà chị ta không thấy ở người chồng thô bạo đã khuất. Sự cô đơn về thân xác và linh hồn khiến chị càng khao khát hồn Trương Ba. Hồn Trương Ba cũng bị rung động trước sự gần gũi với vợ người Hàng thịt và phải tự đấu tranh để thoát ra khỏi vòng tay âu yếm của thị. Vợ Trương Ba cũng dần cảm thấy chồng khác trước và nảy sinh mặc cảm, tự ti về sức khỏe và nhan sắc trước hình vóc trẻ khỏe của hồn Trương Ba. Đến đây, ta đã thấy sự tồn tại độc lập của thân xác đối với linh hồn, sự chi phối của thân xác đối với linh hồn cùng những phiền toái do sự không hòa hợp, không thống nhất giữa linh hồn và thân xác.
Đỉnh cao của tư tưởng triết lý trong vở kịch là sự đối thoại giữa linh hồn và thân xác. Cuộc đối thoại này cho thấy con người ta có hai phần là linh hồn và thể xác. Hai phần đó có quan hệ hữu cơ với nhau. Linh hồn có cơ sở vật chất là thể xác, cũng như nhận thức lý tính phải bắt đầu từ cảm tính; tình cảm hình thành từ những quan hệ cụ thể trong đời thường; cảm xúc thẩm mỹ phải dựa trên các cảm quan thị giác, thính giác… Thể xác cũng có tính độc lập tương đối, có tiếng nói riêng, có nhu cầu tự nhiên hợp lý, không thể bỏ qua. Nhưng, linh hồn phải kiểm soát những nhu cầu đó, phải điều chỉnh, thăng hoa, “Người” hóa, văn hóa hóa những nhu cầu ấy. Con người nói chung phải biết kìm hãm, tiết chế những nhu cầu bản năng và nếu cần, biết đè nén, biết hy sinh nó. Linh hồn và thể xác là một thể thống nhất; trong đó, linh hồn giữ vị trí chủ đạo, nên linh hồn phải chịu trách nhiệm cuối cùng về hành động của thể xác, không thể thỏa mãn mọi nhu cầu ở mọi mức độ, mọi nơi, mọi lúc rồi đổ trách nhiệm cho thể xác. Cuộc đấu tranh giữa linh hồn và thể xác thực sự là cuộc đấu tranh trong bản thân con người để làm chủ những nhu cầu và ham muốn, nhất là khi bị hoàn cảnh tác động. Đó là cuộc đấu tranh để làm chủ bản thân và hoàn thiện nhân cách. Ở đây, cuộc đấu tranh này cũng cảnh báo khả năng lấn át của thể xác – tức của những nhu cầu tầm thường – đối với linh hồn – tức là đối với khát vọng sống cao khiết.
Hành động chấp nhận cái chết, trả lại xác cho anh hàng thịt của Trương Ba là một hành động đúng đắn, một hành động dũng cảm và đạo đức. Từ sự lý giải lại một cách biện chứng về quan hệ giữa thể xác và linh hồn trên triết lý nhân sinh của thời đại, Lưu Quang Vũ đã đi đến một quan niệm sống đẹp: sống chân thật, mình phải chính là mình, cả linh hồn và thể xác, sống vì mọi người, vì hạnh phúc và sự tốt đẹp của con người. Trương Ba chết, nhưng hồn Trương Ba vẫn sống – sống trong tình cảm của mọi người, sống mà không cần mượn đến thân xác của ai hết.
Trước khi kết thúc, tác giả còn đưa nhân vật vào cuộc thử thách cuối cùng, đặt nhân vật trước một sự lựa chọn: chấp nhận cái chết hoặc nhập vào xác cu Tỵ – một em bé hàng xóm vừa chết. Trương Ba không thể tái diễn bi kịch sống trong thân xác mượn của người khác: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Vì thế, ông đã xin cho cu Tỵ được sống lại, còn mình thì xin được chết.
Thực chất, đó là lời tái khẳng định của tác giả đối với quan niệm sống đẹp mà ta nhắc đến ở trên. Bi kịch xung đột giữa linh hồn và thể xác không thể được giải quyết theo đúng cái cách đã tạo ra bi kịch. Đến đây, cái “chết hẳn” của Trương Ba lại thể hiện một chiến thắng thuyết phục của “tồn tại – người”, của nhân cách, của khát vọng hoàn thiện nhân cách của con người.
Không phải chờ đến khi các nhà ngoại cảm và lý thuyết trường sinh học xuất hiện, Lưu Quang Vũ đã khẳng định, theo cách của ông, thân xác của từng cá thể người tồn tại hữu hạn, nhưng sự sống và linh hồn của con người là bất tử. Tư tưởng triết lý của Lưu Quang Vũ về con người vừa biện chứng, vừa lạc quan và cao thượng. Điều này, cùng với tài năng sáng tạo nghệ thuật tác giả, đã làm cho vở kịch có giá trị nhân văn cao, vươn tới tầm nhân loại.
Vấn đề quan hệ giữa linh hồn và thể xác trong Hồn Trương Ba, da Hàng thịtcòn có thể làm ta liên tưởng đến mối quan hệ giữa nội dung và hình thức trong mỗi sự vật. Đương nhiên, mối quan hệ giữa linh hồn và thể xác, giữa nội dung và hình thức là hai cặp phạm trù không đồng nhất, không thể suy cái này ra cái kia một cách tịnh tiến. Tuy vậy, từ sự không đồng nhất, thậm chí đối lập giữa linh hồn và thể xác trong vở kịch, ta có thể liên tưởng tới sự thống nhất cần có giữa nội dung và hình thức là hai mặt của thực tại tự nhiên và xã hội. Khi nội dung và hình thức phù hợp với nhau thì sự vật tồn tại và phát triển. Khi nội dung và hình thức không phù hợp với nhau thì sự phát triển bị kìm hãm và thậm chí, sự tồn tại của sự vật bị đe dọa.
Liên tưởng trên không hề có khi đọc truyện cổ dân gian, mà nếu có, thì đó chỉ là sự tuyệt đối hóa nội dung, xem thường hình thức và tách rời nội dung khỏi hình thức, một tư duy siêu hình mang tính tiên nghiệm.
Từ triết lý đơn giản trong truyện cổ dân gian về vai trò quan trọng thứ nhất của linh hồn, Lưu Quang Vũ đã sáng tạo nên một vở kịch có sức lôi cuốn mạnh mẽ, gửi tới người đọc một thông điệp sâu sắc về triết lý sống: thể xác và linh hồn có quan hệ hữu cơ với nhau; con người không thể chỉ sống bằng thể xác, mà phải luôn luôn đấu tranh với bản thân để có sự thống nhất hài hòa giữa linh hồn và thể xác, hướng tới một lối sống cao thượng, vươn tới một nhân cách hoàn thiện.
Triết lý sống trong Hồn Trương Ba, da hàng thịt – Bài làm 2
“Hồn Trương Ba da hàng thịt” là một vở kịch nổi tiếng được Lưu Quang Vũ xây dựng dựa trên một câu chuyện dân gian về nhân vật Trương Ba giỏi chơi cờ và cái chết oan ức của ông. Thế nhưng điểm mới của vở kịch này chính là một kết thúc hoàn toàn khác với kết thúc truyện dân gian. Thông qua vở kịch, Lưu Quang Vũ đã gửi gắm những suy ngẫm về nhân sinh, về hạnh phúc, đồng thời kết hợp phê phán một số tiêu cực trong lối sống đương thời.
Dựa trên cốt truyện dân gian, vở kịch cũng xây dựng nhân vật Trương Ba là một lão nông làm vườn hiền lành, được mọi người yêu quý và rất giỏi chơi cờ. Nam Tào vì tắc trách trong công việc cho nên bắt chết nhầm Trương Ba. Đế Thích – một vị tiên cờ và cũng là bạn của Trương Ba – đã giúp hồn Trường Ba nhập vào xác anh hàng thịt cũng vừa mới chết. Trong truyện dân gian, kịch tính được xây dựng là cảnh hai bà vợ cùng tranh chồng trên quan nha. Và sau thì vợ Trương Ba thắng kiện và đưa chồng mình về nhà.
Không dừng lại ở một kết thúc đẹp như vậy, Lưu Quang Vũ đã tiếp tục khai thác kết thúc của tích truyện dân gian. Khi hồn Trương Ba được sống trong xác anh hàng thịt thì cuộc sống của ông lại trở nên éo le, khập khiễng. Quá đau khổ và tuyệt vọng, cuối cùng Trương Ba đã xin Đế Thích cho mình được chết hẳn, vì “không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được”. Xây dựng tình huống đầy kịch tính và cách giải quyết tình huống như vậy, Lưu Quang Vũ muốn thể hiện một triết lý về lẽ sống: cuộc sống thật đáng quý, nhưng không phải sống thế nào cũng được. Nếu sống vay mượn, chắp vá, không có sự hòa hợp về tâm hồn và thể xác thì con người chỉ gặp những bi kịch mà thôi. Cuộc sống chỉ thực sự hạnh phúc khi chúng ta được sống là chính mình, được hài hòa cả về thể chất lẫn tinh thần. Đây cũng chính là nội dung tư tưởng chủ đạo mà tác phẩm muốn hướng đến.
Để làm nổi bật tư tưởng này, Lưu Quang Vũ đã xây dựng những xung đột xung quanh nhân vật Trương Ba để cho người đọc người xem thấy được sự khập khiễng giữa “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”. Trước hết là xung đột thể hiện qua màn đối thoại giữa hồn và xác. Đây cũng là xung đột chính, xung đột có tính quan trọng nhất trong vở kịch.
Trương Ba trước kia vốn nhân hậu, nhưng từ khi nhập vào xác anh hàng thịt bỗng dần đổi khác: thèm ăn ngon, thèm rượu thịt, không còn mặn mà với thú vui thanh cao trí tuệ. Điều ấy làm cho hồn Trương Ba vô cùng đau khổ và ghê tởm thân xác kềnh càng, thô lỗ mà mình đang mang. Chính vì thế mà hồn Trương Ba muốn được sống là một ông Trương Ba chăm chỉ hiền lành nhưng lại bị cái xác chế giễu, bị ép phải thoải mãn những yêu cầu phàm tục. Những lý lẽ mà hồn Trương Ba đưa ra dần đuối lý và ngày càng nhận trở nên bất lực, chỉ biết thở dài buông ra những lời tuyệt vọng bởi hồn đang ngày càng bị xác chi phối mạnh mẽ.
Cuộc xung đột này đã cho thấy, thể xác cũng có tiếng nói bản năng, cũng có những nhu cầu đòi hỏi phải được đáp ứng. Chính vì thế, ý thức của con người cũng chịu một phần sự chi phối của thể xác. Nhưng con người, cần phải biết hòa hợp, luôn phải đấu tranh và tự đấu tranh với chính mình để vượt lên những đòi hỏi sai lệch của thể xác và những dung tục đời thường.
Sự khập khiễng “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo” không chỉ khiến cho bản thân Trương Ba cảm thấy khổ đâu mà còn gây nỗi muộn phiền cho người thân. Những lời đối thoại của hồn Trương Ba với những người thân trong gia đình đã cho thấy một Trương Ba rất khác. Vợ ông cảm thấy đau khổ và buồn bã hơn cả khi ông mất. Cháu gái của ông còn xua đuổi ông vì bàn tay to bè, chân như cái xẻng đã thô lô giẫm chết mấy chồi non mà ông nội Trương Ba của nó trồng. Chị con dâu vốn là người hiểu biết và rất mực thông cảm cho ông cũng phải thừa nhận: “có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa…”.
Có thể thấy rằng trong mắt những người thân của mình, Trương Ba đã biến thành một con người khác. Dù ông có cố gắng thế nào thì cũng không thể trở lại hình ảnh một ông lão làm vườn chăm chỉ, hiền lành được mọi người yêu quý. Dù Trương Ba có sống lại nhưng trong xác anh hàng thịt, mọi người thân đều không thể cảm thấy được đây là chồng, là cha, là ông của mình. Bi kịch ấy chính là bi kịch sống mà không được thừa nhận. của hồn Trương Ba lúc này là bi kịch không được thừa nhận.
Bản thân mình không chấp nhận được mình và gia đình cũng không thể chấp nhận được con người mình, hồn Trương Ba trở nên vô cùng đau khổ và tuyệt vọng. Chính vì thế mà Trương Ba đã có một quyết định dứt khoát: “Tôi không muốn nhập vào hình thù của ai hết. Tôi đã chết rồi, hãy để tôi chết hẳn!”. Ngay cả khi Đế Thích thuyết phục hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tỵ nhưng ông vẫn quả quyết: “cứ để cho tôi được chết hẳn”. Bởi lẽ, “không thể bên trong 1 đằng, bên ngoài 1 nẻo được” và sống nhờ vào thân xác của người khác thì không còn là chính mình, như thế thì cuộc sống không phải là sống mà chỉ là một chuỗi bi kịch mà thôi. Đây có thể nói là một tư tưởng, một lẽ sống hết sức lớn lao. Vì ý nghĩa đích thực của cuộc sống là con người được sống với chính mình. Mọi sự giả tạo, chắp vá đều không thể đem lại sự thoải mái và hạnh phúc.
Kết thúc vở kịch, hồn Trương Ba đã rời khỏi xác anh hàng thịt tưởng chừng như là một cái kết không có hậu nhưng đó lại là cái kết đẹp nhất. Lưu Quang Vũ đã để một cái kết khiến người đọc vừa thở phào vừa phải trăn trở suy nghĩ. Cu Tỵ sống lại, còn hồn Trương Ba vẫn sống trong ánh lửa nấu cơm, trong vườn cây, trong những điều tốt lành xung quanh mọi người. Đó chính là một cái kết viên mãn nhất, trong đó con người cần phải sống cho ra sống, sống là đích thực chính mình.
Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” đã cho chúng ta thấy những bài học về lẽ sống, về cái chết và về hạnh phúc của con người. Qua vở kịch, Lưu Quang Vũ cũng thể hiện sự phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ. Con người sống mà chỉ biết đến thỏa mãn những đòi hỏi tầm thường mà dần đánh mất mình. Cuộc sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi mà được sống là chính mình, được hòa nhập với cộng đồng, với xã hội.
Triết lý sống trong Hồn Trương Ba, da hàng thịt – Bài làm 3
Lưu Quang Vũ là một cây bút tài hoa đã để lại dấu ấn trong nhiều thể loại : thơ, văn xuôi, đặc biệt là kịch. Thiên hướng và năng khiếu nghệ thuật của Lưu Quang Vũ sớm bộc lộ từ nhỏ và vùng quê Bắc Bộ đã in dấu nhiều trong sáng tác của ông sau này. Ở thể loại nào người đọc cũng bắt gặp một Lưu Quang Vũ với tâm hồn nổi gió, sức sống mãnh liệt và khả năng sáng tạo miệt mài. Năm 2000, Lưu Quang Vũ được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về nghệ thuật sân khấu. Các tác phẩm chính : Thơ : Hương cây, Mây trắng, Bầy ong trong đêm sâu, Kịch : Sống mãi tuổi 17, Mùa hạ cuối cùng, Hồn Trương Ba da hàng thịt, Tôi và chúng ta, Nàng Si-ta…
Hồn Trương Ba, da hàng thịt được sáng tác theo hướng khai thác cốt truyện dân gian và gửi gắm những suy ngẫm về nhân sinh, về hạnh phúc, kết hợp phê phán một số tiêu cực trong lối sống hiện thời. Truyện dân gian gây kịch tính sau khi hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt dẫn tới “vụ tranh chấp” chồng của hai bà vợ phải đưa ra xử, bà Trương Ba thắng kiện được đưa chồng về. Lưu Quang Vũ khai thác tình huống kịch bắt đầu ở chỗ kết thúc của tích truyện dân gian. Khi hồn Trương Ba được sống trong xác anh hàng thịt, mọi sự càng trở nên rắc rối, éo le để rồi cuối cùng đau khổ, tuyệt vọng khiến Hồn Trương Ba không chịu nổi phải cầu xin Đế Thích cho mình được chết hẳn. Xây đựng tình huống và giải quyết xung đột như vậy, Lưu Quang Vù đã gứi gắm một triết lí sâu sắc về lẽ sống, lẽ làm người: cuộc sống thật đáng quý, nhưng không phải sống thế nào cũng được. Nếu sống vay mượn, sống chắp vá, không có sự hài hòa giữa vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách và nhu cầu vật chất thì con người chỉ gặp bi kịch mà thôi. Cuộc sống của mỗi con người chỉ thực sự hanh phúc, chỉ có giá trị khi được sống đúng là mình, được sống tự nhiên trong một thể thống nhất. Đó là chủ đề tư tưởng chính của vở kịch.
Tài năng kịch của Lưu Quang Vũ thể hiện trên nhiều phương diện, tiêu biểu nhất là tài dựng cảnh và dựng đối thoại. Kịch tính căng ra trong những xung đột, những mâu thuẫn bên ngoài và bên trong nhân vật. Ngôn ngữ hành động và ngôn ngữ nội tâm được diễn tả sống động, lời thoại thấm đẫm triết lí nhân sinh.
Bi kịch xảy ra khi hồn Trương Ba sống lại trong xác hàng thịt. Đây là bi kịch chính, bi kịch nội tại của nhân vật trong thể xác thô phàm đầy bản năng nhục dục của anh hàng thịt. Hồn Trương Ba trước nay vốn nhân hậu, nay dần dần đổi khác: thích uống rượu, thích bán thịt, không còn mặn mà với trò chơi thanh cao trí tuệ. Ý thức được điều đó, hồn Trương Ba vô cùng đau khổ và càng đau khổ khi không giải quyết được mâu thuẫn. Hồn Trương Ba càng cố gắng thoát khỏi sự chi phối của thân xác thô phàm thì càng bị thân xác ép buộc.
Chính vì vậy, hồn Trương Ba mới có khát vọng mãnh liệt muốn thoát ra khỏi thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn càng đau khổ vì mình không còn là mình nữa. Trương Ba bây giờ đâu còn là 1 người làm vườn chăm chỉ, hết lòng yêu thương vợ con mà biến thành 1 người thô lỗ vụng về. Trong cuộc đối thoại với xác hàng thịt, ta thấy hồn Trương Ba bị đẩy vào thế yếu, đuối lí còn xác hàng thịt ngày càng thắng thế bởi xác có sức mạnh riêng của nó. Xác đã đưa ra những dẫn chứng cụ thể để thấy sự chi phối của mình. Đó là cảm giác xao xuyến trước món ăn: tiết canh, cổ hũ…, đó là cảm giác: “tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực” khi đứng bên cạnh người vợ hàng thịt…Đó là cái lần ông tát thằng con ông “tóe máu mồm máu mũi”. Những dẫn chứng đó là sự thật khiến hồn Trương Ba cảm thấy xấu hổ, ti tiện, xác còn chế nhạo với cái lí lẽ mà hồn Trương Ba chỉ đưa ra để ngụy biện: “ta vẫn có 1 đời sống riêng, nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”. Xác đồ tể nhận thấy những lí lẽ của hồn Trương Ba ngày càng đuối dần nên đã ép hồn thỏa hiệp với mình. Lí lẽ mà xác đưa ra là cả 2 đã hòa làm 1, không thể tách rời. Hồn cứ thỏa mãn nhu cầu của xác rồi làm điều xấu lại đổ cho xác.
Có thể thấy trong cuộc đối thoại này xác thắng thế nên rất hả hê. Khi thì mỉa mai, khi thì châm chọc. Còn hồn thì vô cùng đau khổ, xấu hổ vì những điều xác nói ra mà mình thì không muốn thừa nhận. Quả thực hồn đã bị xác chi phối.
Ý nghĩa: Xung đột kịch chưa được giải quyết, chưa dừng lại. Tuy nhiên qua cuộc đối thoại giữa hồn và xác, người đọc nhận ra những hàm ý sâu xa Lưu Quang Vũ muốn gửi gắm trong đó. Thể xác là tiếng nói bản năng của con người, trong con người có phần tự nhiên và phần xã hội. Con người tự nhiên cũng có tiếng nói riêng, nhu cầu riêng, bản thân nhu cầu đó không xấu, con người cũng phải đáp ứng được những nhu cầu tự nhiên đó. Thể xác có những tác động ghê gớm đối với tâm hồn. Vì vậy, con người luôn luôn phải đấu tranh và tự đấu tranh với chính mình để vượt lên những đòi hỏi sai lạc của thể xác, để vượt lên những dung tục của đời thường Ở đây, ta thấy được hồn Trương Ba đã được sống lại nhưng lại sống với 1 cuộc sống hổ thẹn, bị dung tục, hủy hoại. Qua đây, Lưu Quang Vũ muốn đề cập tới vấn đề phải hoàn thiện môi trường, hoàn cảnh sống của con người. Trong môi trường, hoàn cảnh tốt, con người mới có thể hoàn thiện nhân cách, bảo vệ những giá trị văn hóa.
Tất cả những người thân yêu của hồn Trương Ba đều nhận ra cái nghịch cảnh trớ trêu. Họ đã nói ra thành lời bởi với họ cái ngày chôn xác Trương Ba xuống đất họ đau, họ khổ nhưng “cũng không khổ bằng bây giờ”.
Sau tất cả những đối thoại ấy, mỗi nhân vật bằng cách nói riêng, giọng nói riêng của mình đã khiến hồn Trương Ba cảm thấy không thể chịu nổi. Nỗi cay đắng với chính bản thân mình cứ lớn dần… lớn dần, muốn đứt tung, muốn vọt trào..
Nhà viết kịch đã để cho hồn Trương Ba còn lại trơ trọi một mình với nỗi đau khổ, tuyệt vọng lên đến đỉnh điểm, một mình với những lời độc thoại đầy chua chát nhưng cũng đầy quyết liệt: “Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ.. Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình? “Chẳng còn cách nào khác”! Mày nói như thế hả? Nhưng có thật là không còn cách nào khác? Có thật không còn cách nào khác? Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!”. Đây là lời độc thoại có tính chất quyết định dẫn tới hành động châm hương gọi Đế Thích một cách dứt khoát.
Người đọc, người xem có thể nhận ra những ý nghĩa triết lí sâu sắc và thấm thía qua hai lời thoại này. con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác, không thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Thứ hai, sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gứi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa. Những lời thoại của hồn Trương Ba với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý thức rõ về tình cảnh trớ trêu,đầy tính chất bi hài của mình, thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng ngày càng chênh lệch giữa hồn và xác, đồng thời càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung nấu của nhân vật trước lúc Đế Thích xuất hiện.
Rồi đến quyết định dứt khoát xin tiên Đế Thích cho cu Tị được sống lại, cho mình được chết hẳn chứ không nhập hồn vào thân thể ai nữa của nhân vật hồn Trương Ba là kết quả của một quá trình diễn biến hợp lí. Hơn nữa, quyết định này cần phải đưa ra kịp thời vì cu Tị vừa mới chết. Hồn Trương Ba thử hình dung cảnh hồn của mình lại nhập vào xác cu Tị để sống và thấy rõ “bao nhiêu sự rắc rối” vô lí lại tiếp tục xảy ra. Nhận thức tỉnh táo ấy cùng tình thương mẹ con cu Tị càng khiến hồn Trương Ba đi đến quyết định dứt khoát. Qua quyết định này, chúng ta càng thấy Trương Ba là con người nhân hậu, sáng suốt, giàu lòng tự trọng. Đặc biệt, đó là con người ý thức được ý nghĩa của cuộc sống.
Vấn đề quan hệ giữa linh hồn và thể xác trong Hồn Trương Ba, da Hàng thịtcòn có thể làm ta liên tưởng đến mối quan hệ giữa nội dung và hình thức trong mỗi sự vật. Đương nhiên, mối quan hệ giữa linh hồn và thể xác, giữa nội dung và hình thức là hai cặp phạm trù không đồng nhất, không thể suy cái này ra cái kia một cách tịnh tiến. Tuy vậy, từ sự không đồng nhất, thậm chí đối lập giữa linh hồn và thể xác trong vở kịch, ta có thể liên tưởng tới sự thống nhất cần có giữa nội dung và hình thức là hai mặt của thực tại tự nhiên và xã hội. Khi nội dung và hình thức phù hợp với nhau thì sự vật tồn tại và phát triển. Khi nội dung và hình thức không phù hợp với nhau thì sự phát triển bị kìm hãm và thậm chí, sự tồn tại của sự vật bị đe dọa.
Liên tưởng trên không hề có khi đọc truyện cổ dân gian, mà nếu có, thì đó chỉ là sự tuyệt đối hóa nội dung, xem thường hình thức và tách rời nội dung khỏi hình thức, một tư duy siêu hình mang tính tiên nghiệm.
Từ triết lý đơn giản trong truyện cổ dân gian về vai trò quan trọng thứ nhất của linh hồn, Lưu Quang Vũ đã sáng tạo nên một vở kịch có sức lôi cuốn mạnh mẽ, gửi tới người đọc một thông điệp sâu sắc về triết lý sống: thể xác và linh hồn có quan hệ hữu cơ với nhau; con người không thể chỉ sống bằng thể xác, mà phải luôn luôn đấu tranh với bản thân để có sự thống nhất hài hòa giữa linh hồn và thể xác, hướng tới một lối sống cao thượng, vươn tới một nhân cách hoàn thiện.
Triết lý sống trong Hồn Trương Ba, da hàng thịt – Bài làm 4
Mac-xim Goc-ki đã từng khẳng định : “nhà văn nào không biết đến văn học dân gian là 1 nhà văn tồi”. LQV đã viết lại cổ tích dựa vào 1 cốt truyện dân gian: Trương Ba giỏi đánh cờ nên quen thân với Đế Thích. Nam Tào bắt chết nhầm Trương Ba, Đế Thích cho hồn Trương Ba sống lại bằng cách nhập vào thân xác anh hàng thịt mới chết. Hồn Trương Ba sống lại, hạnh phúc, đoàn tụ với vợ con. Nhưng kịch hiện đại không có 1 kết thúc có hậu kiểu như vậy. LQV bắt đầu khai thác bi kịch ngay từ chỗ hồn Trương Ba sống lại và tất cả được nhìn dưới góc độ khác, dưới ánh sáng thật của bao nhiêu ưu phiền khi hồn Trương Ba ở trong xác anh hàng thịt
LQV tập trung khai thác bi kịch hồn Trương Ba không thể dung hòa với xác hàng thịt. Hồn tượng trưng cho thế giới tinh thần cao khiết, kết tinh văn hóa của con người. Còn xác tượng trưng cho những nhu cầu, bản năng của con người. Bi kịch xảy ra là hồn không thể nào tìm thấy sự bình yên trong chính cái xác ấy, trong chính gia đình mình và cả trong gia đình hàng thịt, cuối cùng đã chọn giải pháp là cái chết.
Từ 1 câu chuyện dân gian quen thuộc, LQV đã xây dựng được 1 tình huống kịch với những xung đột quyết liệt, mới mẻ, độc đáo. Qua đó, nhà văn đã gửi gắm triết lý sống sâu sắc về lẽ sống làm người
Cuộc đối thoại giữa hồn và xác, Bi kịch xảy ra khi hồn Trương Ba sống lại trong xác hàng thịt. Đây là bi kịch chính, bi kịch nội tại của nhân vật trong thể xác thô phàm đầy bản năng nhục dục của anh hàng thịt. Hồn Trương Ba trước nay vốn nhân hậu, nay dần dần đổi khác: thích uống rượu, thích bán thịt, không còn mặn mà với trò chơi thanh cao trí tuệ. Ý thức được điều đó, hồn Trương Ba vô cùng đau khổ và càng đau khổ khi không giải quyết được mâu thuẫn. Hồn Trương Ba càng cố gắng thoát khỏi sự chi phối của thân xác thô phàm thì càng bị thân xác ép buộc.
Chính vì vậy, hồn Trương Ba mới có khát vọng mãnh liệt muốn thoát ra khỏi thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn càng đau khổ vì mình không còn là mình nữa. Trương Ba bây giờ đâu còn là 1 người làm vườn chăm chỉ, hết lòng yêu thương vợ con mà biến thành 1 người thô lỗ vụng về. Trong cuộc đối thoại với xác hàng thịt, ta thấy hồn Trương Ba bị đẩy vào thế yếu, đuối lí còn xác hàng thịt ngày càng thắng thế bởi xác có sức mạnh riêng của nó. Xác đã đưa ra những dẫn chứng cụ thể để thấy sự chi phối của mình. Đó là cảm giác xao xuyến trước món ăn: tiết canh, cổ hũ…, đó là cảm giác: “tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực” khi đứng bên cạnh người vợ hàng thịt…Đó là cái lần ông tát thằng con ông “tóe máu mồm máu mũi”. Những dẫn chứng đó là sự thật khiến hồn Trương Ba cảm thấy xấu hổ, ti tiện, xác còn chế nhạo với cái lí lẽ mà hồn Trương Ba chỉ đưa ra để ngụy biện: “ta vẫn có 1 đời sống riêng, nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”. Xác đồ tể nhận thấy những lí lẽ của hồn Trương Ba ngày càng đuối dần nên đã ép hồn thỏa hiệp với mình. Lí lẽ mà xác đưa ra là cả 2 đã hòa làm 1, không thể tách rời. Hồn cứ thỏa mãn nhu cầu của xác rồi làm điều xấu lại đổ cho xác.
Có thể thấy trong cuộc đối thoại này xác thắng thế nên rất hả hê. Khi thì mỉa mai, khi thì châm chọc. Còn hồn thì vô cùng đau khổ, xấu hổ vì những điều xác nói ra mà mình thì không muốn thừa nhận. Quả thực hồn đã bị xác chi phối.
Ý nghĩa: Xung đột kịch chưa được giải quyết, chưa dừng lại. Tuy nhiên qua cuộc đối thoại giữa hồn và xác, người đọc nhận ra những hàm ý sâu xa LQV muốn gửi gắm trong đó. Thể xác là tiếng nói bản năng của con người, trong con người có phần tự nhiên và phần xã hội. Con người tự nhiên cũng có tiếng nói riêng, nhu cầu riêng, bản thân nhu cầu đó không xấu, con người cũng phải đáp ứng được những nhu cầu tự nhiên đó. Thể xác có những tác động ghê gớm đối với tâm hồn. Vì vậy, con người luôn luôn phải đấu tranh và tự đấu tranh với chính mình để vượt lên những đòi hỏi sai lạc của thể xác, để vượt lên những dung tục của đời thường => Ở đây, ta thấy được hồn Trương Ba đã được sống lại nhưng lại sống với 1 cuộc sống hổ thẹn, bị dung tục, hủy hoại. Qua đây, LQV muốn đề cập tới vấn đề phải hoàn thiện môi trường, hoàn cảnh sống của con người. Trong môi trường, hoàn cảnh tốt, con người mới có thể hoàn thiện nhân cách, bảo vệ những giá trị văn hóa.
Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và những người thân
Nỗi đau khổ tuyệt vọng của hồn Trương Ba càng được đẩy lên khi đối thoại với những người thân trong gia đình
Trong cuộc đối thoại với người vợ hiền của mình, ông đã nhận ra trong hình hài của anh hàng thịt, tính tình ông cũng đã thay đổi. Người vợ mà ông rất mực yêu thương đã đòi ra đi và đau khổ, buồn bã còn hơn cả khi ông mất. Bà cũng đã dám nói ra sự thay đổi nơi ông: “Ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa”. Lời nói của người vợ 1 lần nữa khẳng định sự tha hóa, thay đổi ở hồn Trương Ba và sự phủ nhận đó đồng nghĩa với sự khước từ
Cái Gái-cháu ông cũng 1 mực không chấp nhận hồn Trương Ba là ông nội. Nó không chấp nhận cái con người có bàn tay giết lợn, chân to bè bè như cái xẻng, hành động vụng về, thô lỗ, giẫm nát cả cây sâm quý mới ươm. Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự xua đuổi quyết liệt, 1 sự phủ nhận tuyệt đối: “Cút đi, lão đồ tể cút đi!”
Người con dâu vốn được miêu tả là 1 người sâu sắc, chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt, chị rất cảm thông với nỗi đau của bố chồng: “Bởi con biết giờ thầy khổ hơn xưa nhiều lắm”. Nhưng trước tình cảnh gia đình sắp tan hoang cả , chị cũng đành phải nói ra sự thật: “nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy…mỗi ngày thầy 1 đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa…”
Như vậy tất cả những người thân yêu trong gia đình đều nhận ra nghịch cảnh trớ trêu, nhận ra sự thay đổi ở Trương Ba. Dù rất thương Trương Ba nhưng họ vẫn phải nói ra thành lời bởi họ nhận ra 1 điều: cái ngày họ chôn xác Trương Ba xuống đất, họ cũng không đau khổ như bây giờ. Bi kịch của hồn Trương Ba lúc này là bi kịch không được thừa nhận. Hồn Trương Ba xa lạ trên cõi đời, xa lạ ngay giữa gia đình của mình.
Bi kịch gia đình là nút nhấn cuối cùng trong chuỗi xung đột kịch. Gia đình đối với người phương Đông rất quan trọng, nó là căn cốt để phục sinh nhân tính. Mất gia đình là mất mát lớn lao nhất của hồn Trương Ba, ý nghĩa sống của hồn Trương Ba không còn nữa. Đỉnh điểm xung đột xuất hiện khi hồn Trương Ba quyết định thắp hương để gọi Đế Thích
Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và Đế Thích
Trước khi vào cuộc đối thoại với Đế Thích, LQV để cho hồn Trương Ba độc thoại, thể hiện nỗi đau đỉnh điểm tột cùng: “Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ, mày đã tìm được đủ mọi cách để lấn át ta…Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình? “ Từ lời độc thoại này dẫn đến quyết định Trương Ba lập cập thắp hương gọi Đế Thích
Qua cuộc đối thoại với Đế Thích, người đọc nhận ra quan niệm về hạnh phúc, về cái chết. Hồn Trương Ba đã dứt khoát thể hiện niềm khát khao qua lời thoại: “không thể bên trong 1 đằng, bên ngoài 1 nẻo được”; “sống nhờ vào đồ đạc, của cải đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống thế nào thì ông chẳng cần biết!”
Những lời thoại của hồn Trương Ba chính là cốt lõi tư tưởng mà LQV gửi gắm. Con người là 1 thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Con người chỉ thực sự hạnh phúc khi con người được là chính mình. Và sự sống của con người là đáng quý nhưng sống thực sự cho ra cuộc sống của con người mới là điều quan trọng. Sống không được chắp vá, không được vay mượn. Ý nghĩa đích thực của cuộc sống là con người được sống trung thực với vạn vật và với chính bản thân mình.
Hồn Trương Ba dứt khoát xin Đế Thích cho mình được chết. Ông không nghe theo giải pháp nhập vào hồn cu Tị , cũng không thỏa hiệp với Đế Thích rằng thế giới này không trọn vẹn. 1 vị thần tiên lại đi chấp nhận 1 cuộc sống giả tạo nhưng 1 con người thì không. Qua đây ta thấy Trương Ba là con người sáng suốt, giàu lòng tự trọng, ý thức sâu sắc về cuộc sống đích thực.
Lẽ ra vở kịch nên kết thúc ở chỗ hồn Trương Ba chết, anh hàng thịt chết, cu Tị chết, nhưng LQV đã không rơi vào tâm trạng hoài nghi, bi quan bởi vì hồn Trương Ba đã thuyết phục Đế Thích để cu Tị sống lại, còn hồn Trương Ba-người làm vườn nhân hậu, người đánh cờ thanh tao vẫn sống trong ánh lửa nấu cơm, trong vườn cây, trong những điều tốt lành của cuộc đời, trong mỗi trái cây…
LQV đã gửi gắm vào sự lựa chọn của hồn Trương Ba những trăn trở, day dứt và cả niềm tin mãnh liệt vào con người. Bằng cái chết của mình, Trương Ba đã gìn giữ được những kỉ niệm tốt lành, đã giữ cho các thế hệ sau niềm tin vào con người, cuộc sống. Hình ảnh 2 đứa trẻ gắn bó, yêu thương và hạt na cái Gái vùi vào đất: “ Cho cây xanh nối nhau mà lớn khôn. Mãi mãi…” Lời dạy của ông nội chính là niềm hi vọng, niềm tin mãnh liệt của tác giả vào “những điều không thể mất” trong mỗi con người
Qua vở kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt, LQV góp phần phê phán 1 số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ. Con người đang có nguy cơ chạy theo những ham muốn tầm thường, muốn thỏa mãn những nhu cầu của bản năng, đến nỗi trở nên phàm phu, tục tử như nhà thơ Chế Lan Viên đã viết:
“Muốn nuôi sống thân xác
Đem làm thịt linh hồn”
Nhưng lại có 1 xu hướng ngược lại, lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống linh hồn là cái cao nhất, không chăm lo gì đến đời sống vật chất, không chịu phấn đấu vì hạnh phúc trọn vẹn
Vở kịch còn phê phán tình trạng con người sống giả dối, không dám sống là mình. Đấy là nguy cơ đẩy con người vào chõ tha hóa do danh và lợi. Nhưng kịch của LQV có được sức sống lâu dài là bởi những triết lý sâu sắc, có ý nghĩa đối với muôn đời. Vở kịch cho ta những bài học về lẽ sống, chết, về hạnh phúc. Cuộc sống thật đáng quý nhưng không phải sống thế nào cũng được. Hạnh phúc chân chính của con người là được sống trọn vẹn, sống thật với chính mình, với mọi người.
Qua vở kịch, người đọc cũng cảm nhận được tài năng của LQV. Vở kịch là sự kết hợp giữa tính hiện đại và giá trị truyền thống, giữa sự phê phán mạnh mẽ, quyết liệt và chất trữ tình đằm thắm, giữa triết lý sâu sắc và lời văn bay bổng, lãng mạn.