Phân tích giá trị nhân đạo của truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân
Hướng dẫn
Phân tích giá trị nhân đạo của truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân
“vợ nhặt” là một trong những truyện ngắn hay nhất của Kim Lân và của nhà văn học Việt Nam sau năm 1974. Truyện vợ nhặt có giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc. Thông qua tình huống “nhặt vợ” tác giả đã cho chúng ta thấy được nhiều điều về cuộc sống tối tăm của những người lao động trong nạn đói 1945 cũng như về khát vọng sống mãnh liệt và ý thức về nhân phẩm rất cao ở họ.
Trước hết, tác phẩm đã bộc lộ được niềm xót xa đối với cuộc sống thê thảm của người dân nghèo trong nạn đói 1945. Qua đó, tố cáo về tội ác tày trời của thực dân pháp và phát xít Nhật đã gây nên nạn đói. Trong bối cảnh chính của truyện “vợ nhặt” diễn ra trong một xóm ngục ơ, ở đó cái đói đang hành hạ mọi người, cái đói như thấm vào cái nhìn của cảnh vật. Con đường từ trong xóm chợ vào bên trong bến thì “khẳng khiu”, cái thứ ánh sáng đầu tiên hắt vào truyện là thứ ánh sáng nhập nhoạng mù mờ, không ra ánh sáng mà cũng không ra tối hẳn của buổi chiều tà “chạng vạng” rồi hiện lên vật vờ ủ rủ những bóng người đói “xanh xám như những bóng ma”. Người sống hì nằm ngổn ngang ở lều thợ, trên ngọn cât thì hình ảnh bầy quạ kêu thảm thiết. văng vẳng bên tai là tiếng trống thúc thuế dồn dập, những đứa trẻ thì ngồi ở xó đường, không buồn nhúc nhích…một cuộc sống mấp mé bên bờ cái chết với cái không khí “vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”.
Tiếp đó, tác phẩm đi sâu khám phá, trâng trọng cùng nâng niu về khát vọng hạnh phúc của con người, khát vọng sống, trước hết đó là Tràng. Khi nhặt được vợ về, Tràng không biết biết “chợn”, “thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bong”. Nhưng rồi anh ta “tặc lưỡi”: “Chậc, Kệ!”.
Tiếp đó là ý thức cố bám lấy sự sống rất mạnh mẽ ở người vợ nhặt. Thị đã chấp nhận bỏ qua ý thức danh dự để theo Tràng về nhà. NHư vậy, hoàn cảnh bi đát một mặt đẩy con người bỏ qua cả cái danh dự để tồn tại còn mặt khác thì nó làm bộc lộ lòng ham sống tới manh liệt của những ncon người ở dưới đáy xã hội như thị.
Tất cả mọi người đều có ý thức vun đắp cho cuộc sống mới và bà cụ Tứ cũng không ngoại lệ. khi cái tuổi gần đất xa trời bà lại là người thường nói tới hy vọng về ngày mai nhiều hơn tất cả: từ việc đan cái phên ngăn chỗ ở vợ chồng cho kín đáo rồi “ có tiền mua lấy đôi gà “… “Mẹ chồng nàng dâu thu dọn cửa nhà, sáng hôm sau thị dậy từ sớm quét dọn nhà cửa cho ngăn nắp, gọn gàng” hình như ai nấy đều nghĩ rằng “thu xếp cửa nhà cho quang quẻ, nền nếp thì cuộc đời họ có thể sẽ khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn”. Qua tác phẩm này còn cho chúng ta thấy niềm hy vọng về một cuộc đổi đời của các nhân vật, và đã được thể hiện qua hình ảnh lá cờ đỏ bay phấp phới vấn vương trong tâm trí Tràng.
Giá trị nhân đạo của truyện còn được thể hiện ở lòng tin sâu sắc vào sự đổi đời, vào lòng nhân hậu của con người. Tràng tuy có vẻ bề ngoài xấu xí nhưng cái đẹp bên trong lại luôn tiềm ẩn, đó là sự cảm thông, lòng thương người, sự hào phóng chu đáo. Qua việc Tràng đãi Thị bốn cát bát bánh đúc, mua một chai dầu và mua cho thị môt cái thúng con, đó chính là hành động rất bình thường nhưng nó lại thể hiện tình nghĩa và thái độ mua cho thị một cái thúng con, đó là hành động rất đỗi bình thường nhưng ở thời điểm đó nó thể hiện được tình nghĩa và cả thái độ trách nhiệm của Tràng.
Còn nói về người vợ Nhặt, lúc này đã có sự biến đổi về tính cách, trước khi về làm vợ Tràng, thi hiện lên với vẻ chao chát, chỏng lỏng. Trước câu hò của Tràng thì thị cong cớn nói “Điêu! Người thế mà điêu”… nhưng từ khi bắt đầu bước về làm vợ thì “ Thị đi theo Tràng với dáng điệu đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tang, nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt, khi về đến nhà thị chỉ dám ngồi mớm ở mép giường. Sáng hôm sau dậy từ sớm quét dọn nhà cửa…” còn về phần bà cụ Tứ thì bà luôn hết mực yêu thương cảm thông cho tình cảm của nàng dâu mới “có gặp bước khó khăn đói khổ này người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có được vợ”, bà ân cần từ cách hành động với con dâu “con ngồi xuống đây, ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân”. Bà luôn trăn trở về nghĩa vụ làm mẹ của mình “chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi…còn mình thì”, trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt. Bà luôn cố tạo niềm vui cho gia đình giữa cảnh sống thê thảm. Người mẹ ấy luôn sống vì con vì cái và tìm thấy ý nghĩa của cuộc đời mình trong hạnh phúc của con.
Nổi bật nhất trong giá trị nhân đạo của tác phâm đó là về niềm tin tưởng sâu sắc vào con người lao động, vào bản năng sống, khát vọng sống mạnh mẽ của họ. Tình cảm nhân đạo của tác phẩm có nét mới mẻ hơn so với tình cảm nhân đạo được thể hiện trong nhiều các tác phẩm văn học hiện thực trước cách mạng.