Đề 14: Trình bày cảm nhận của em về bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy – Bài văn chọn lọc lớp 9
Hướng dẫn
Đề 14: Trình bày cảm nhận của em về bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy.
Bài làm
Nguyễn Duy là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Sáng tác của ông thấm đẫm phong vị của ca dao, dân ca nhưng nhiều bài vẫn có cái ngang tàng mà trầm tĩnh, giàu chiêm nghiệm. Thơ ông vì thế cứ đi sâu vào tâm hồn người đọc một cách tự nhiên và có lúc khiến người ta phải giật mình. Ánh trăng là một thi phẩm như thế. Nó tựa như một câu chuyện nhỏ có các sự kiện diễn biến theo trình tự thời gian. Lời thơ dung dị như lời kể nhưng chất thơ vẫn đong đầy và ẩn chứa những triết lí sâu sắc về con người, cuộc đời.
Mớ đầu bài thơ là những kỉ niệm êm đềm, tươi đẹp giữa trăng và người trong quá khứ. Một loạt những mốc thời gian được liệt kê, như một cuốn phim quay chậm:
Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ
Lời thơ như không hề có sự dụng công nghệ thuật mà chỉ là sự đo đếm bước đi của thời gian, sự kiện: hồi nhỏ, sống với đồng, với bể, với sông, hồi chiến tranh… Thế nhưng ẩn chứa sau nó là cả một quãng đời dài, từ thời niên thiếu hồn nhiên, thơ dại đến khi trưởng thành và trong những năm tháng chiến tranh gian khổ gắn bó cùng trăng. Mọi chiều kích không gian và thời gian được mở rộng tới bao la, không cùng, gợi hình ảnh ánh trăng tràn ngập không gian, trải dài theo thời gian. Cách gieo vần lưng “đổng”, “sông” và điệp từ “với” đã diễn tả một tuổi thơ êm đềm hạnh phúc chan hoà cùng thiên nhiên của tác giả. Khi lớn lên, bước chân vào đời lính gian khổ, giữa núi rừng hoang lạnh “vầng trăng thành tri kỉ”. Trăng theo sát bước chân người lính, cùng chia sẻ buồn vui của cuộc sống chiến đấu. Ta chợt nhớ tới vầng trăng của tình đồng đội thiêng liêng trong sáng tác của Chính Hữu:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
(Chính Hữu – Đồng chí)
Trăng thực sự là một người bạn thân thiết trong những năm tháng tuổi nhỏ và là người “tri kỉ” của người lính trong những tháng ngày khói lửa chiến tranh. Con người giản dị, hồn nhiên như bản tính vốn có của tự nhiên bao đời:
Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
Tính từ “trần trụi”, “hồn nhiên” được đặt ở hai đầu dòng thơ như muốn nhấn mạnh khí chất của con người. Trăng và người cứ hồn nhiên như thế, như sông, như đồng, như bể, như tâm hồn chân chất của những người nông dân mộc mạc, như tinh thần lạc quan, bay bổng của những người lính. Cách gieo vần lưng “thiên nhiên”, “hồn nhiên” làm cho âm điệu thơ liền mạch, khơi dòng cảm xúc dâng tràn trong tâm hồn thi nhân. Từ “ngỡ” như báo trước một sự đổi thay, một điều bất thường. Câu thơ như một lời tự nhủ của nhân vật trữ tình, cũng là bản lề mở ra sự biến chuyển của tứ thơ:
Từ hồi vê thành phố
quen ánh điện, cửa gương
vầng trăng đì qua ngõ
như người dưng qua đường
Tác giả chỉ ra sự đối lập giữa hoàn cảnh của con người trong hiện tại và quá khứ. Quá khứ là những tháng ngày sống cùng thiên nhiên dân dã, mộc mạc, với đồng, với sông, với bể ; còn hiện tại là “ánh điện, cửa gương” nơi phố thị phồn hoa. Tác giả sử dụng thủ pháp hoán dụ để nói về cuộc sống đầy đủ, tiện nghi xa hoa, ồn ào của thành phố. Từ sự thay đổi của hoàn cảnh đã dẫn đến sự đổi thay của lòng người:
Vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường
Người bạn “tri kỉ”, “tình nghĩa” tưởng không bao giờ quên được ấy giờ đây lại giống như “người dưng qua đường”. Phép nhân hoá càng gợi lên dư vị xót xa trong tâm hồn độc giả. Vầng trăng có tình cảm, có yêu thương, có thuỷ chung. Còn con người lại dửng dưng, vô tình, dễ đổi thay. Những ồn ào nơi cuộc sống phố thị, những ánh sáng của cuộc sống xa hoa làm lu mờ trái tim, xoá nhoà kí ức đẹp đẽ một thời. Đó không phải là điều cá biệt trong cuộc sống. Bởi vậy mà ông cha ta đã từng nhắc nhớ: “ngọt bùi nhớ lúc đắng cay”, khuyên con người ta không nên quay lưng lại với quá khứ.
Có lẽ, vầng trăng tri kỉ đó sẽ mãi bị “ngủ quên” trong miền kí ức nếu không có một tình huống bất ngờ xảy đến, buộc con người phải đối mặt:
Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn – đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn
Đèn điện tắt cũng là lúc những ánh sáng của bóng điện cửa gương biến mất. Đó là tình huống tạo nên bước ngoặt để nhân vật trữ tình bộc lộ cảm xúc, thể hiện chủ đề của tác phẩm. Hai từ “thình lình”, “đột ngột” mang âm hưởng nhanh, mạnh, được đảo lên đầu câu, tạo sự đối lập giữa “phòng buyn – đinh tối om” và “vầng trăng tròn”. Giây phút nhìn thấy vầng trăng chứa chở bao cảm xúc ngỡ ngàng. Cái “đột ngột” trons sự xuất hiện của vầng trăng cũng chính là tâm trạng “đột ngột” của nhà thơ khi nhận ra vầng trăng tình nghĩa ngày nào. Trăng vẫn như xưa, vẫn đẹp một vẻ tròn đầy, vẹn nguyên. Sự xuất hiện ấy, lặng lẽ thôi mà đầy bất ngờ, mà có sức rung động mạnh mẽ đối với tâm hồn con người, thức tỉnh phần kí ức bị ngủ quẽn. Để rồi, khi đối diện với trăng, những cảm xúc ấy càng dâng tràn mạnh mẽ:
Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bê
như lù sông là rừng
Niềm xúc động chen lẫn sự thành kính bao trùm không gian. Trăng và người, quá khứ và hiện tại, thuỷ chung và đổi thay đối diện với nhau. Từ “mặt” cuối câu thơ là từ đa nghĩa, tạo nên sự đa dạng cho ý thơ. “Mặt” là trăng, là thiên nhiên, là quá khứ một thời bị lãng quên, và “mặt” còn là chính bản thân con người. Con người đang tự đối diện với chính mình, với một thời quá vãng. Khoảnh khắc đối diện ấy làm nhà thơ “rung rung” xúc động, bởi quá khứ vất vả mà ấm áp tình yêu cùng trăng bấy lâu tưởng chừng bị lãng quên nay lại ùa về, bởi con người đã nhận thức được giá trị của quá khứ, biết hổ thẹn và ân hận về sự đổi thay của mình.
Điệp từ “như là”, các hình ảnh liệt kê sông, đồng, bể, rừng cùng nhịp thơ dồn dập tạo nên dòng cảm xúc mãnh liệt, cuốn độc giả hoà theo với bao mênh mông, sâu lắng.
Khổ thơ cuối là dòng cảm xúc lắng sâu, trở thành những triết lí nhân sinh sâu sắc:
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình
“Trăng tròn vành vạnh” biểu tượng cho sự tròn đẩy, vẹn nguyên, thuỷ chung như nhất của thiên nhiên, của quá khứ. Nó đối lập với con người vô tình đổi thay, đối lập với ánh điện cửa gương dễ bị chi phối bởi hoàn cảnh. Hai tiếng “kể chi” như một lời khẳng định thể hiện sự bao dung độ lượng của trăng. Ánh trăng được nhân hoá và khoảnh khắc “im phăng phắc” là cái lặng im của sự nghiêm khắc mà bao dung, của sự thấu hiểu và độ lượng, tha thứ. Sự im lặng của trăng đủ để nhà thơ “giật mhìh” – cái giật mình của lương tâm thức tỉnh, của kí ức bị lãng quên ùa về. Cái giật mình ấy làm cho con người trở nên đáng trọng hơn. Bao ăn năn như bị dồn nén, tạo nên một sự ám ảnh sâu sắc về cái lặng im đầy ý nghĩa, về cái giật mình thảng thốt ấy.
Sử dụng thể thơ năm chữ quen thuộc, với lời thơ giản dị, mạch thơ tự nhiên, Nguyễn Duy như đưa ta vào một câu chuyện cuộc đời để ta tự rút ra cho mình cách sống, cách đối nhân xử thế. Bài thơ thức tỉnh mỗi chúng ta hãy biết trân trọng và giữ gìn quá khứ. Cảm xúc thơ chân thành, tha thiết giúp cho bài thơ lắng sâu nơi tâm hồn người đọc như một khúc ca da diết, mãi ngân vang.
PHẠM TUẤN ANH
Lời nhân xét:
– Bài viết đã có những phân tích sâu sắc, khá tinh tế về bài thơ Ánh trăng – một thi phẩm chứa đựng nhiều ý nghĩa. Người viết khai thúc tốt các giá trị biểu cảm của từ ngữ cũng như các thủ pháp nghệ thuật.
– Bô cục bài viết hợp lí, mạch lạc.
– Văn phong trong sáng, giàu xúc cảm: “Lời thơ như không hề có sự dụng công nghệ thuật, chỉ là sư đo đếm bước đi của thời gian, sự kiện: hồi nhỏ, sống với đồng, với bể, với sông, hồi chiến tranh,… thế nhưng ẩn chứa sau nó là cả một quãng đời dài, từ thời niên thiếu hồn nhiên, hoang dại đến khi trưởng thành và những năm tháng chiến tranh gian khổ gắn bó cùng trăng. Mọi chiều kích không gian và thời gian được mở rộng tới bao la, không cùng, gợi hình ảnh ánh trăng tràn ngập không gian, trải dài theo thời gian.
Xem thêm Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng tại đây.
Theo hoctotnguvan.vn