Hầu trời – Tản Đà bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn văn 11
I. Tác giả
1. Tiểu dẫn
– Tản Đà: (1889-1939), tên thật Nguyễn Khắc Hiếu
– Quê hương: Tỉnh Sơn Tây (Nay thuộc tỉnh Hà Tây), mồ côi cha từ nhỏ, già đình nghèo khó.
– Năm 1913 ông làm báo tại Vĩnh Yên.
– Năm 1915 ông lấy vợ
– Năm 1916 ông chính thức chọn con đường viết văn, làm báo chuyên nghiệp.
– Năm 1926 ông cho ra đời An Nam tạp chí.
– Con người:
+ Sinh ra và Lớn lên trong buổi giao thời.
+ Là “người của hai thế kỷ” (Hoài Thanh)
+ Học chữ hán từ nhỏ nhưng về sau chuyển sang sáng tác văn chương bằng chữ quốc ngữ…
2. Sự nghiệp văn học
a. Di sản văn học
– Thơ: Khối tình con người I, II (1916, 1918)
– Truyện: Giấc mộng con người I, II (1916, 1932)
– Tự truyện: Giấc mộng lớn (1928)
– Thơ và văn xuôi: Còn chơi (1921).
b. Phong cách thơ
– Lãng mạn, bay bổng, vừa phóng khoáng, ngông nghênh, vừa cảm thương ưu ái.
– Có thể xem thơ văn ông như một gạch nối giữa hai thời văn học của dân tộc: trung đại và hiện đại.
– Ông có lối đi riêng vừa tìm về ngọn nguồn thơ ca dân gian và dân tộc vừa có những sáng tạo độc đáo tài hoa
3. Vị trí và tầm ảnh hưởng
– Từ thập niên 1920 cho đến nửa đầu thập niên 1930, văn đàn Việt Nam không có một nhà thơ nào nổi tiếng và được yêu mến như Tản Đà.
– Nghe tin Tản Đà mất, làng văn nghệ trong nước trở nên xôn xao. Một loạt các bài báo tưởng niệm Tản Đà được ra mắt ngay sau đó:
+ Khái Hưng có “Cái duyên của Tản Đà”, “Vài chuyện vui về thi sĩ Tản Đà”.
+ Xuân Diệu có “Công của thi sĩ Tản Đà”
+ Lâm Tuyền Khách có “Một tháng với Tản Đà”,“Đời làm báo của Tản Đà”
+ Lưu Trọng Lư có “Bây giờ, khi nắp quan tài đã đậy lại”
+ Phan Khôi có “Tôi với Tản Đà thi sỹ”
+ Nguyễn Tuân có “Tản Đà, một kiếm khách”
Những bài viết này thể hiện sự kính trọng, quý mến đối với con người Tản Đà.
– Năm 1941, Hoài Thanh và Hoài Chân cho in tác phẩm “Thi nhân Việt Nam” nổi tiếng, đã cung kính đặt Tản Đà lên ngồi ghế “chủ suý” của hội tao đàn, ở những trang đầu tiên, như một người mở lối cho thi ca Việt Nam bước vào một giai đoạn tươi đẹp mới.
– Ông là người sáng lập ra tờ báo chuyên về văn học đầu tiên của Việt Nam: tờ “An Nam tạp chí”, nó gắn liền với sự nghiệp làm báo của Tản Đà.
II. Tác phẩm
1. Tìm hiểu chung
a) Xuất xứ và hoàn cảnh ra đời
– Trong tập “Còn chơi” (1921)
– Bài thơ ra đời vào thời điểm khuynh hướng lãng mạn đã khá đậm nét trong văn chương thời đại. Xã hội thực dân nửa phong kiến tù hãm, u uất, đầy rẫy những cảnh ngang trái, xót đau…
b) Bố cục
– Phần 1: Giới thiệu về câu truyện, từ “đêm qua … lạ lùng”
– Phần 2: “chủ tiên … chợ trời” Thi nhân đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe.
– Phần 3: “Trời lại phê cho… sương tuyết” thi nhân trò chuyện với trời.
c. Nội dung
Bài thơ bộc lộ cái tôi cá nhân ngông cuồng, phóng túng và y thức cao về tài năng, giá trị đích thực của mình và khao khát được khẳng định mình giữa cuộc đời.
2. Tìm hiểu chi tiết
a. Giới thiệu câu chuyện
– Câu chuyện xảy ra vào “đêm qua”: Gợi khoảnh khắc yên tĩnh, vắng lặng.
– Câu chuyện kể về một giấc mơ được lên cõi tiên (câu 4).
– Nhân vật trữ tình là tác giả, đang mang tâm trạng “chẳng phải hoảng hốt, không mơ màng”
– Biện pháp nghệ thuật: nhấn mạnh tâm trạng cảm xúc của thi nhân.
+ Điệp từ ‘thật”: Bộc lộ cảm xúc bàng hoàng.
+ Câu cảm thán dường như lật lại vấn đề: mơ và tỉnh, hư mà như thực.
+ Câu khẳng định
– Cách giới thiệu trên đã gợi cho người đọc về tứ thơ lãng mạn nhưng cảm xúc là có thực. Tác giả muốn người đọc cảm nhận được cái “hồn cốt” trong cõi mộng, mộng mà như tỉnh, hư mà như thực. Cách vào vấn đề gây được mối nghi vấn kích thích trí tò mò ở người đọc, tạo sức hấp dẫn cho câu chuyện.
=> Cảm nhận được “cái tôi” cá nhân đầy chất lãng mạn, bay bổng pha lẫn nét “ngông” trong thơ thi nhân. Với cách vào chuyện độc đáo có duyên đã làm cho câu chuyện mà tác giả sắp kể trở nên hấp dẫn lôi cuốn.
b. Thi nhân đọc thơ cho trời và chư tiên nghe
* Thái độ của thi nhân khi đọc thơ và việc thi nhân nói về tác phẩm của mình:
– Thi nhân đọc rất cao hứng, sảng khoái và có phần tự đắc:
“ Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lý lại văn chơi”
– Rất đắc ý nên càng đọc càng có cảm xúc nên đọc rất hay: “văn dài hơi tốt ran cung mây”.
– Thi nhân kể tường tận, chi tiết về các tác phẩm của mình:
“Hai quyển khối tình văn lý thuyết
Hai khối tình còn là văn chơi
Thần tiên, giấc mộng văn tiểu thuyết….”
– Giọng đọc: đa dạng, hóm hỉnh, ngông nghênh có phần tự đắc.
=> Đoạn thơ cho thấy thi nhân rất ý thức về tài năng văn thơ của mình và cũng là người táo bạo, dám đường hoàng bộc lộ “cái tôi” cá thể. Ông cũng rất “ngông” khi tìm đến trời để khẳng định tài năng. Đây là niềm khát khao chân thành trong tâm hồn thi sĩ.
* Thái độ của người nghe: Rất ngưỡng mộ tài năng thơ văn của tác giả
– Thái độ của trời: tán dương, khen rất nhiệt thành: văn thật tuyệt, văn trần được thế chắc có ít, văn chuốt như sao băng…
– Thái độ của chư tiên: xúc động, hâm mộ và tán thưởng…Tâm nở dạ, cơ lè lưỡi…
– Nghệ thuật so sánh đã làm nổi bật vẻ đẹp từ ngôn ngữ thơ đến chí khí, tâm hồn của thi sĩ.
=> Cả đoạn thơ mang đậm chất lãng mạn và thể hiện tư tưởng thoát li trước cuộc đời.
c. Thi nhân trò chuyện với trời
* Thi nhân kể về hoàn cảnh của mình
– Thi nhân kể họ tên, quê quán:
“ Con tên Khắc Hiếu họ Nguyễn
Quê ở Á châu về địa cầu
Sông Đà núi Tản nước Việt Nam”
– Trong văn chương việc thể hiện họ tên trong tác phẩm chính là một cách để khẳng định cái tôi cá nhân của mình.
– Thi nhân kể về cuộc sống: Đó là một cuộc sống nghèo khó, túng thiếu, thân phận nhà văn bị rẻ rúng, coi thường. Ở trần gian ông không tìm được tri âm, nên phải lên tận cỏi trời để thỏa nguyện nỗi lòng.
“Bẩm trời hoàn cảnh con thực nghèo khó”
“Trần gian thước đất cũng không có”
“Văn chương hạ giới rẻ như bèo”
“Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu”
Đó cũng chính là hiện thực cuộc sống của người nghệ sĩ trong xã hội lúc bấy giờ, một cuộc sống cơ cực không tấc đất cắm dùi, thân phận bị rẻ rúng, làm chẳng đủ ăn.
=> Qua đoạn thơ tác giả đã cho người đọc thấy một bức tranh chân thực và cảm động về chính cuộc đời mình và cuộc đời nhiều nhà văn nhà thơ khác.
=> Cảm hứng hiện thực bao trùm cả đoạn thơ này.
* Trách nhiệm và khát vọng của thi nhân
– Nhiệm vụ trời giao: Truyền bá thiên lương.
+ Nhiệm vụ trên chứng tỏ Tản Đà lãng mạn chứ không hoàn toàn thoát ly cuộc sống.
+ Ông vẫn ý thức về nghĩa vụ, trách nhiệm đối với đời để đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc hơn.
+ Đó cũng là một cách tự khẳng định mình trước thời cuộc.
– Thi nhân khát khao được gánh vác việc đời
=> Như vậy có thể nói trong thơ Tản đà cảm hứng lãng mạn và cảm hứng hiện thực đan xen khăng khít.
* Cá tính và tâm hồn thi sĩ
– Một con người có cái tính rất ngông: hạ giới khinh rẻ tài năng Tản Đà lên tận trời cao để thể hiện.
– Một con người ý về cá nhân rất cao, dám tự mình khen mình. Đây không phải là sự tự kiêu mà là cá nhân tự ý thức được tài năng thực sự của mình.
– Giọng kể hào hứng, phấn chấn, tự hào.
d. Giá trị nội dung
– Bài thơ thể hiện cái tôi cá nhân ngông nghênh, kiêu bạc, hào hoa và cái tôi cô đơn, bế tắc trước thời cuộc.
– Có thể thấy nhà thơ đã tìm được hướng đi đúng đắn để khẳng định mình.
e. Gía trị nghệ thuật
– Cách kể chuyện hóm hỉnh, có duyên, lôi cuốn người đọc.
– Ngôn ngữ thơ chọn lọc, tinh tế, gợi cảm, không cách điệu, ước lệ.
– Tác giả vừa là người kể chuyện vừa là nhân vật chính.
– Cảm xúc bộc lộ thoải mái, tự nhiên, phóng túng.
– Thể thơ thất ngôn trường thiên khá tự do…
Nhận định
Một số nhận định về tác giả, tác phẩm
1. Nguyễn Tuân: “Trong chốn Tao Đàn, Tản Đà xứng đáng ngôi chủ suý, trong Hội tài tình, Tản Đà xứng đáng ngôi hội chủ mà làng văn làng báo xứ này, ai dám ngồi chung một chiếu với Tản Đà?”
2. Ngô Tát Tố: “Trong cái trang thi sĩ của cuốn Việt Nam văn học sử sau này, dầu sao mặc lòng, ông Tản Đà là một người đứng đầu của thời đại này”.
3. Khái Hưng: “Nhưng trong làng văn nước ta, được nhiều người yêu mến thời còn sống, dễ mới có Tản Đà.“
4. Hoài Thanh – Hoài Chân: “Tiên sinh đã dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc hòa nhạc tân kỳ đang sắp sửa”.
5. Vũ Bằng: “Tôi sợ ông như một ông tiên ”.
6. Xuân Diệu: “Tản Đà là người thi sĩ đầu tiên mở đầu cho thơ Việt Nam hiện đại. Tản Đà là người thứ nhất đã có can đảm làm thi sĩ, đã làm thi sĩ một cách đường hoàng bạo dạn, dám giữ một bản ngã, dám giữ một cái tôi”.
7. Lê Thanh: “Ông Tản Đà là người thứ nhất và là người độc nhất của cái thế hệ ông đã làm sống lại cái hồn thơ Việt Nam đang hấp hối…..ông đã dám ngông, dám có một bản ngã, dám công nhiên để cho cái chữ tình mê man của mình rãi trong văn thơ”.
Hoctotnguvan.vn