Bình giảng bài thơ “Bài ca chúc Tết thanh niên” của Phan Bội Châu

Bình giảng bài thơ “Bài ca chúc Tết thanh niên” của Phan Bội Châu – Bài làm 1

Loading…

Trong ký ức của nhiều thế hệ người Việt Nam, Phan Bội Châu là một nhà yêu nước nồng cháy thiết tha, một nhân vật lịch sử kiệt xuất, tiêu biểu cho phong trào đấu tranh giành độc lập của dân tộc mấy chục năm đầu thế kỷ XX.

van mau binh giang bai tho bai ca chuc tet thanh nien cua phan boi chau Bình giảng bài thơ “Bài ca chúc Tết thanh niên” của Phan Bội Châu

Phan Bội Châu có một tiểu sử oanh liệt. Ngay đến những năm cuối đời, khi bị giặc Pháp giam lỏng ở Huế, Phan Bội Châu vẫn được sự quan tâm đặc biệt của đồng bào, đặc biệt là tầng lớp thanh niên. Ông rất có ý thức bồi dưỡng thế hệ trẻ và đặt vào họ những hy vọng lớn lao. Đầu năm 1927, học sinh trường Quốc học và trường Dòng ở Huế tổ chức chúc thọ ông tròn tuổi 60. Đáp lại tình cảm ấy, Phan Bội Châu đã ứng khẩu đọc bài Bài ca chúc Tết thanh niên, theo thể hát nói. Thông qua những lời bộc bạch chân thành, tác giả thiết tha kêu gọi thanh niên hãy từ bỏ lối sống tầm thường, quyết tâm tu dưỡng, vươn tới lý tưởng cách mạng cứu nước, bắt kịp thời đại mới. Đó chính là sự kỳ vọng và sự bàn giao trách nhiệm của thế hệ Phan Bội Châu cho thế hệ thanh niên kế tiếp. 

Mở đầu Bài ca là tiếng gọi đột ngột, khẩn cấp, giục giã: “Dậy! Dậy! Dậy”. Đây là lời của ai? Hãy đọc kỹ những câu thơ tiếp theo:

Dậy! Dậy! Dậy!

Bên án một tiếng gà vừa gáy.

Chim trên cây liền ngỏ ý chào mừng.

Cách mở đầu thật độc đáo. Tác giả muốn lay tỉnh mạnh mẽ lớp hậu sinh hãy mở mắt nhìn ra một ngày mới bắt đầu: Trời đã sáng, chim chóc đã cất tiếng hót tưng bừng rộn rã. Điều đáng nói ở đây là tiếng gà, tiếng chim kia đều có sức thôi thúc, giục giã khác thường. Thì ra, những âm thanh đời thường vốn rất là quen thuộc ấy được “nghe” qua tâm trạng hy vọng, mong chờ một thời cơ mới và thế hệ mới của tác giả bỗng trở thành có tính biểu tượng đầy ý nghĩa của “vận hội mới”. Cảm động biết bao khi ta hiểu đây là tâm trạng của một người đang sống trong hoàn cảnh nghiệt ngã, bị kẻ thù kìm kẹp hòng cắt lìa khỏi thực tế đấu tranh của dân tộc, nhưng vẫn gắn bó với cuộc sống, tin tưởng ở thế hệ tương lai của đất nước.

Loading…

Xét đến cùng, tiếng thúc giục “Dậy! Dậy! Dậy” không chỉ là lời kêu gọi tâm huyết của Phan Bội Châu. Đó là tiếng gọi của Tổ Quốc, của non sông mà Phan Bội Châu là người đại diện. Tiếng gọi Phan Bội Châu – Tổ quốc ấy ta còn thấy vang ở nhiều tác phẩm khác của nhà cách mạng. Trong cuốn Trùng Quan tâm sử ông từng viết “Non sông như cũ, thành quách y nguyên! Chủ nhân là ai? Quốc dân ơi! Đồng bào ơi! Dậy! Dậy! Dậy!”

Đoạn thơ tiếp theo, Phan Bội Châu dành mấy dòng nói về bản thân mình. Lời thơ chân thành, tha thiết khiến cho người đọc vô cùng xúc động:

Xuân ơi xuân, xuân có biết cho chăng?

Thẹn cùng sông, buồn cùng núi, tủi cùng trăng,

Hai mươi năm lẻ đã từng chua với xót.

Trời đất may còn thân sống sót,

Tháng ngày khuây khỏa lũ đầu xanh.

Khác với giọng vui tươi, phấn khởi phần đầu, những câu thơ ở đây có nhịp điệu chậm rãi, nặng trĩu ưu tư, phiền muộn. Trước “tân vận hội”, Phan Bội Châu cảm thấy chạnh buồn khi tâm sự với mùa xuân của đất trời và cũng là tâm sự với thế hệ trẻ, những người tri âm, tri ki của nhà thơ. Ở đây có nhiều cách hiểu về mùa xuân; xuân vừa có nghĩa là đất nước quê hương vừa để chỉ những lớp người trẻ tuổi. Phan Bội Châu bộc bạch hết nỗi niềm tâm sự. Đấy trước hết là nỗi đau của một người đã từng phải làm “khách không nhà trong bốn biển”, suốt nai mươi năm bôn tẩu, nhưng rốt cuộc “trăm thất bại không một thành công”. Đúng là trong nỗi đau này không chỉ có “thẹn” mà còn có thêm nỗi “buồn” và nỗi “tủi” lẫn cả sự chua xót đắng cay. Đây là nỗi đau xót của một trượng phu, một anh hùng, một nhân vật lịch sử kiệt xuất. Đây còn là nỗi đau của cả một dân tộc, một đất nước. Câu thơ “Thẹn cùng sông, buồn cùng núi, tủi cùng trăng” được ngắt đều thành ba nhịp, ba vế đối nhau, mỗi trạng thái tình cảm đặt vào trong quan hệ của một hình ảnh biểu tượng của đất nước, thể hiện nỗi đau của tầm vóc núi sông, tầm vóc thời đại. Ta liên tưởng đến nỗi đau lớn của Đặng Dung thời trước trong bài thơ Cảm hoài đầy bi tráng: “Thù nước chưa xong, đầu đã bạc”. Đây là tâm sự của một con người đã từng trải qua mấy chục năm tung hoành, khi ở Nhật Bản, lúc ở Trung Quốc, lúc ở Xiêm La, nay phải sống trong vòng kiềm tỏa của quân thù và tuổi già đã đến, chỉ còn biết trông cậy vào “lũ đầu xanh” để khuây khỏa “tháng ngày”. Như vậy, Phan Bội Châu ý thức sâu sắc vai trò lịch sử của mình đã chấm dứt và cụ nghiêm khắc tự đánh giá bản thân mình. Điều này chứng tỏ sự sáng suốt nhân cách cao đẹp của nhà cách mạng. Riêng việc hiểu được bản thân mình, thấy được giới hạn của mình cũng đã thể hiện một phần tầm vóc lớn của tác giả, khiến người đọc vô cùng cảm phục.

Thất bại, nhưng không thất vọng; nhà thơ đặt hy vọng vào thế hệ thanh niên:

Thưa các cô, các cậu, lại các anh.

Một chữ thưa mà hàm chứa bao nhiêu niềm trân trọng và tin yêu. Đó vừa là đức khiêm nhường, vừa thể hiện tấm lòng thiết tha của nhà cách mạng lão thành đối với vận mệnh của đất nước. Thì ra, đối với Phan Sào Nam, dẫu ở tuổi 60, dẫu đã là một nhân vật lừng danh, nhưng bất kể già trẻ gái trai, ai có tinh thần cứu nước, biết thương xót giống nòi thì đều phải kính trọng. Ta còn nhớ có lần, Phan đã “ngàn vạn lạy” các chú lính tập để họ quay về với Tổ quốc (Việt Nam vong quốc xứ). Hơn nữa, cách xưng hô thích hợp để tác giả trình bày những vấn đề trọng đại tiếp theo. Bởi vậy, có thể nói, ở đây, cụ Phan đã chọn lựa được những lời lẽ và giọng điệu thích hợp nhất để phô diễn ý tưởng của mình.

Tâm sự với thanh niên, Phan Bội Châu khẳng định “đời đã mới, người càng nên đổi mới”. Câu thơ có cách diễn đạt tăng cấp: lúc nào cũng cần đổi mới, huống chi đời đã đổi mới, tức là có cơ hội mới, vận hội mới. Đến câu tiếp theo “Xúm vai vào xốc vác cựu giang sơn”, tác giả nói cụ thể hơn nhiệm vụ của thanh niên phải cùng nhau đoàn kết giành lại chủ quyền cho giang sơn mà cha ông từ ngàn xưa để lại. Công việc này thật khó khăn, nặng nề, vì thế không những phải dũng cảm, mà còn phải khôn khéo kiên trì, nhất là phải biết đoàn kết, biết “liên hiệp lại” thành một khối vững chắc:

Đi cho êm, đứng cho vững, trụ cho gan

Đây đoàn thể quyết ghe phen liên hiệp lại.

Trải qua những năm tháng hoạt động cách mạng, cụ Phan ý thức rất rõ về tầm quan trọng của sự đoàn kết. Ngay những năm đầu ra nước ngoài, trong Thư gửi người trong nước khuyên nhân dân giúp tiền cho học sinh đi học ngoại quốc, Phan Bội Châu đã nêu rõ: “Hễ người đông thì xong công việc, đồng tâm thì sức sẽ khỏe; góp nhiều mảnh da để may áo cừu, góp nhiều cây lại để chống nhà. Muôn búa vào rừng cây to cũng ngã; xe cát suốt ngày, biển sâu cũng lấp”. Những câu thơ trên đây hấp dẫn người đọc không phải chỉ ở nội dung mà chính là ở cách nói, ở bầu nhiệt huyết. Nó còn có sức thuyết phục lớn vì được bảo chứng bằng cách cả cuộc đời hoạt động cách mạng không mệt mỏi của nhà đại ái quốc.

Lời khuyên nhủ có lúc chuyển sang giọng dịu dàng, nhỏ nhẹ, như vỗ về:

Ai hữu chí từ nay xin gắng gỏi

Xếp bút nghiêng mà tu dưỡng lấy tinh thần,

Đừng ham chơi, đừng ham mặc, ham ăn…

Có lúc lại sôi nổi, hào hùng và quyết liệt:

Dựng gan óc lên đánh tan sắt lửa

Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ

Nhưng đấy mới thực là giọng chủ đạo của thơ Phan Bội Châu – đúng như Tố Hữu nhận xét: “Phan Bội Châu câu thơ dậy sóng”. Qua giọng thơ và hình ảnh thơ, ta thấy hiện lên thật rõ nét một Phan Bội Châu tuy tuổi đã già, thân bị giam cầm nơi Bến Ngự, mà tinh thần vẫn hăm hở sục sôi, vẫn khao khát tung hoành và đặc biệt là vẫn muốn chuyển mình theo “tân vận hội”.

Khát vọng ấy ông muốn truyền tới lớp đầu xanh với tất cả niềm tin của mình:

Chữ rằng: Nhật nhật tân, hựu nhật tân.

Bình giảng bài thơ “Bài ca chúc Tết thanh niên” của Phan Bội Châu – Bài làm 2

Trong những năm bị an trí ở Huế, thỉnh thoảng, Phan Bội Châu vẫn được bè bạn và bà con thân thuộc lui tới thăm viếng. Đặc biệt lớp thanh niên thành thị vẫn còn kì vọng ở cụ khá nhiều. Cụ Phan cũng rất có ý thức quan tâm bồi dưỡng thế hệ trẻ, bằng nhiều cách khắc nhau; trong đó tiêu biểu nhất có lẽ phải kể đến Bài ca chúc Tết thanh niên.

Thông qua lời tâm sự chân thành, bằng Bài ca chúc Tết thanh niên, Phan Bội Châu thiết tha kêu gọi thế hệ trẻ hãy từ bỏ lối sống tầm thường, quyết tâm tu dưỡng để đi theo con đường cứu nước, giải phóng dân tộc.

Mở đầu tác phẩm là ba tiếng gọi gấp gáp, giục giã: “Dậy! Dậy! Dậy'”. Cách mớ đầu độc đáo này làm cho người đọc bị cuốn hút. Nhiều người bình giảng tác phẩm này vẫn chưa thống nhất tiếng gọi kia là của ai. Đọc đến câu thứ hai, ta có thể hiểu đây chính là tiếng gà gáy đánh thức mọi người:

Dậy! Dậy! Dậy!

Bên án một tiếng gà vừa gáy.

Có thể tạm hình dung như thế này chăng: bên bàn để sách (án) nhà thơ thao thức băn khoăn vì nghiệp lớn chưa thành, bỗng  nghe tiếng gà gáy đánh thức cá những người còn đang trong giấc ngủ. Trời đã sáng, chim chóc trên cây cât tiếng líu lo, chào mừng một ngày mới, náo nức niềm vui và chan hòa sức sống. Những điều đáng nói là tiếng gà và tiếng chim kia đâu có phai là tiếng gà, tiếng chim binh thường. Tiếng gà giục giã thôi thúc. Tiếng chim “chào mừng”

Như vậy, những âm thanh đã được “nghe” qua tâm trạng hi vọng, mong chờ vào thời cơ mới và vào thế hệ mới. Đây chính là tâm trạng của một con người trong hoàn cảnh nghiệt ngã bị kẻ thù bao vây, tìm mọi cách cắt đứt với thực tế đấu tranh của dân tộc, nhưng con người đó vẫn gắn bó với cuộc sống, tin tưởng ở thế hệ trẻ tương lai của đất nước. Lời thơ thật mạnh mẽ, rắn rỏi, phấn chấn!

Như vậy, tiếng thúc giục “Dậy! Dậy! Dậy!” cũng có thể hiểu chính là lời kêu gọi tâm huyết của Phan Bội Châu. Cách diễn đạt này người đọc có thế nhận thấy ở một vài tác phẩm khác của họ Phan. Chẳng hạn như trong Trùng Quang tâm sử, ông đã viết: “Non sông như cũ, thành quách y nguyên! Chủ nhân là ai? Quốc dân ơi! Đồng bào ơi! Dậy! Dậy! Dậy!”.

Trước cảnh tượng “tân vận hội” sắp mở ra đó, nhà cách mạng cảm thấy chạnh buồn: khác với giọng điệu vui tươi ở phần trên, những câu thơ ở đây nhịp chậm lại như nặng trĩu ưu tư, phiền muộn. Tác giả nói về mình bằng những dòng thật chân thành, khiến người đọc xúc động sâu xa:

Xuân ơi xuân, xuân có biết cho chăng?

Thẹn cùng sông, buồn cùng núi, tủi cùng trăng,

Hai mươi năm lẻ, đã từng chua với xót

Trời đất may còn thân sống sót,

Tháng ngày khuây khỏa lũ đầu xanh.

“Xuân” ở đây vừa có thể hiểu là xuân của đất trời, vừa có thể là để chỉ thế hệ thanh niên của đất nước. Trong càu “Xuân ơi xuân, xuân có biết cho chúng thì “xuân” thê hệ thanh niên đã trở thành những người bạn tri âm tri kỉ của nhà thơ. Vì là tri âm tri kỉ, nên nhà thơ bộc bạch hết nỗi niềm tâm sự. “Xuân” có hiểu nỗi đau của một người hơn hai mươi năm bôn ba (1905-1925) là “khách không nhà trong bốn biển”, nhưng rốt cuộc “trăm thất bại không một thành công?”. Trong nỗi đau này đúng là có cả cái “thẹn”, cái “buồn”, và cái “tủi”, lẫn sự chua xót, đắng cay. Đây là nỗi đau đớn của một nhân vật lịch sử kiệt xuất. Đau vì sự nghiệp cách mạng không thành. Đau vì hoài bão cứu nước, cứu dân không thực hiện được. Câu thơ 9 chữ được cắt đều thành ba nhịp đối nhau, mỗi trạng thái tình cảm lại kèm theo một hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ, khắc họa rõ nét nỗi đau có tầm vóc núi sông, tầm vóc thời đại (Thẹn cùng sông / buồn cùng núi / tủi cùng trăng”). Nỗi đau của Phan Sào Nam có phần cũng giống như nỗi đau của người anh hùng Đặng Dung ở thế kỉ XV, khi “thù nước chưa xong đầu đã hạc”. Nhưng nó khác xa so với nỗi đau trong một số tác phẩm trốn văn đàn công khai đương thời, như Giọt lệ thu, hay Linh Phương kí.

Con người có nỗi đau này sau mấy chục năm dài bôn ba tung hoành, đến nay, cuộc sống chỉ còn ngắn ngủi, không thể tính bằng năm mà chỉ tính bằng tháng, bàng ngày (“tháng ngày”) và chỉ mỗi một cách làm dịu người đi (“khuây khỏa”) nỗi lòng nói trên bằng cách trông chờ vào sự thức tỉnh của thế hệ trẻ (“lũ đầu xanh”).

Ở đây, ta còn bắt gặp cái nhìn sáng suốt của Phan Bội Châu. Ông ý thức được vai trò lịch sử của mình đã chấm dứt, ông nghiêm khắc chân thành tự đánh giá bản thân. Hiểu được người không để, hiểu bản thân mình thật sự là một việc khó khăn gấp bội. Ở điểm này Phan Sào Nam cũng xứng đáng là một bậc vĩ nhân. Thái độ chân thành, tha thiết của tác giả khiến người đọc xúc động, tạo nên sức mạnh trong lời kêu gọi của ông ở phía cuối bài ca.

Giờ đây, mang nỗi đau nói trên, “ông già Bến Ngự”, hướng toàn bộ tình cảm vào thế hệ thanh niên:

Thưa các cô, các cậu, lại các anh.

Bao nhiêu sự trân trọng quí mến gởi vào một chữ “thưa!”. Lúc này, nhà thơ đã tròn 60 tuổi, đã là một nhân vật lịch sử nổi tiếng nhưng vẫn xưng hô với “lũ đầu xanh” bằng giọng “thưa”. Một chữ “thưa” đủ sức làm người đọc cảm động. Điều ấy không chỉ phản ánh đức khiêm nhường của họ Phan, mà quan trọng hơn nó thể hiện tấm lòng thiết tha cứu nước. Đối với người chiến sĩ này, bất kể già, trẻ, gái, trai; sang hay hèn… ai có tinh thần vì sự nghiệp lớn ông đều có thái độ trân trọng, thậm chí tôn thờ. Đọc câu thơ: “Thưa các cô…” ta không khỏi nhớ tới lần Phan Bội Châu đã “ngàn vạn lạy” các chú tập binh để họ qua về với nhân dân, với đất nước {Việt Nam vong quốc sử). Vả lại, cách xứng hộ trịnh trọng nêu trên chính là sự chuấn bị tạo không khí thích đáng để trình bày những vấn đề trọng đại tiếp sau. Như vậy, họ Phan đã tìm được ngôn ngữ và giọng điệu phù hợp nhất để diễn đạt ý tưởng của mình.

Xem thêm:  Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du

Lời chúc Tết của Phan Bội Châu khác hẳn những lời chúc Tết thường gặp. Trước hết, ông khẳng định: “Đời đã mới, ngày càng thêm đổi mới”. “Đời đã mới” chính là cơ hội mới, vận mệnh mới của dân tộc, của đất nước. Lúc nào con người cũng cần phải đổi mới. Nhưng vì có cơ hội mới, nên con người “càng” phải đổi mới nhiều hơn, nhanh chóng hơn. Sự đổi mới nói trên thể hiện ở việc cùng nhau đoàn kết giành chủ quyền đất nước, do cha chúng ta để lại:

Đây là một công việc lớn lao nặng nề nên phải khéo léo (“Đi cho êm),  phải kiên trì dũng cảm, khó khăn không lùi bước (“đứng cho vững, trụ cho gan”). Và đặc biệt là phải đoàn kết “xúm vai vào”, phải “liên hiệp lại”. Qua lịch sử đấu tranh giữ nước của dân tộc, qua kinh nghiệm hoạt động cách mạng của chính bản thân, Phan Bội Châu rất chú trọng đến yếu tố đoàn kết. Ngay từ 1905, trong một bức Thư gửi người trong nước khuyên nhân dân giúp tiền cho học sinh đi học ngoại quốc, ông đã khẳng định “Tình đoàn kết có thể vá trời”… “Hễ người đông thì xong công việc, đồng tâm thì sức sẽ khỏe; góp nhiều mảnh da lại đế may áo cừu, góp nhiều cây lại để chông nhà. Muôn búa vào rừng, cây to cũng ngã; xe cát suốt ngày, biển sâu cũng lấp”. Nói cho công bằng, nội dung trên đâu phải là chuyện hoàn toàn mới mẻ, nhưng nó vẫn hấp dẫn được người dọc không những do cách nói nhiệt huyết, mà còn bởi chính cuộc đời hoạt động cách mạng gian truân của người anh hùng họ Phan.

Sau khi xác định phương hướng hành động chung, Phan Bội Châu khích lệ những “ai hữu chí” (tức là những ai nhận thấy “Tân vận hội”, quyết tầm phấn đấu rèn luyện “xốc vác cựu giang sơn”). Đầu tiên là sự “gắng gỏi” trong cuộc sống thường nhật để bỏ thói quen đã lỗi thời:

Cởi lốt xưa mà tu dưỡng tinh thần.

Không nên quá sa vào những đòi hỏi thường nhật:

Đừng ham chơi, đừng ham mặc, đừng ham ăn.

Cách nói của họ Phan khá cụ thể, đầy đủ, các chi tiết nêu ra quen thuộc với mọi người, nhưng lại không vụn vặt, nhàm chán. Vấn đề này được trình  bày thật lôgic: thiếu những “gắng gỏi” hàng ngày, sao có thể làm được những việc phi thường:

Đúc gan sát để dời non lấp bể,

Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ.

Hai câu thơ trên phác họa được hình ảnh kì vĩ của con người sống có chí khí lớn lao, bên gan phấn đấu vì sự nghiệp lớn lao của dân tộc. Câu “Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ” là một sáng tạo độc đáo của tác giả, diễn tả rất hay tinh thần cảm tử, thái độ quyết tâm cùng nhiệt huyết (“máu nóng”) theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng để tẩy rửa vết nhục nhã phải làm dân một nước nô lệ. Y tẩy rửa này trước đây Nguyễn Đình Chiểu đã có lần nói đến trong bài Xúc cảnh: “Chừng nào Thánh đế ân soi thấu – Một trận mưa nhuần rửa núi sông”. Tuy nội dung có phần giống nhau, nhưng rõ ràng cách nói của họ Phan gây ấn tượng, sâu đậm hơn, mạnh mẽ hơn.

Hai câu thơ nói trên cho người đọc hiểu thêm khí phách của “ông già Bến Ngự”. Cho dù bị kẻ thù kiềru tỏa, họ Phan vẫn công khai thể hiện lập trường “không đội trời chung với quân giặc”. Hơn nữa, trong hoàn cảnh thực dân Pháp ra sức xuyên tạc làm tiêu ma ý chí cứu nước của dân tộc, khi không ít thanh niên còn đương “Bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước” (Tố Hữu)…, ta càng thấm thía ý nghĩa to lớn của những lời kêu gọi trên đây.

Kết thúc Bài ca chúc Tết thanh niên tác giả mượn một câu trong kinh điển nhà Nho để tô đậm thêm nội dung đã trình bày ở trên: Năm mới đến, thanh niên cần có tư tưởng mới, cách sống mới:

Chữ rằng: “Nhật nhật tân, hựu nhật tân”…

Tóm lại, tuy còn một số hình ảnh ngôn ngữ có phần đã cũ, nhưng Bài ca chúc Tết thanh niên vẫn là một thành công tiêu biểu cho bút pháp tuyên truyền cách mạng của Phan Bội Châu. Đây chính là lời kêu gọi thanh niên lên đường cứu nước chân thành tha thiết của “ông già Bến Ngự”.

Bình giảng bài thơ “Bài ca chúc Tết thanh niên” của Phan Bội Châu – Bài làm 3

Trong tâm hồn và thơ văn, Phan Bội Châu đã dành cho thế hệ trẻ Việt Nam nhiều mến yêu, trân trọng:

“Ôi! Đáng kính thay thanh niên! Đáng sợ thay thanh niên!

Nếu ai nói rằng: Thanh niên lay trời, trời phải rung

Thanh niên xoay đất, đất phải chuyển, cũng không phải là quá đáng vậy!”.

(Khóc thanh niên)

Trong số 800 bài thơ và mấy chục bài phú, bài văn tế của Phan Bội Châu để lại, người đọc tìm thấy biết bao lời tốt đẹp và cảm động của nhà chí sĩ nói với thanh niên. Tiêu biểu nhất là bài thơ “Bài ca chúc Tết thanh niên”. Đầu xuân 1927, học sinh trường Quốc học và trường Nhà dòng Huế đến mừng thọ Phan Bội Châu. Trong lời đáp từ của nhà chí sĩ, có bài thơ “Bài ca chúc Tết thanh niên”. Báo “Tân thế kỉ” số ra ngày 3-2-1927 đã giới thiệu toàn văn bài thơ. Viết theo thể hát nói đôi khổ, giọng thơ vừa bồi hồi tha thiết, vừa mạnh mẽ hùng hổn, bài ca đã động viên và khích lệ thanh niên lên đường cứu nước.

Mở đầu bài thơ, ba tiếng: “Dậy! Dậy! Dậy!” là lời lay gọi thức tỉnh một số đông thanh niên đang ngủ mê trong đêm trường nô lệ. Cách nói ấy, ta bắt gặp khá nhiều trong thơ văn yêu nước đầu thế kỉ XX:

“Than ôi! Bách Việt hà san,

Văn minh đã sẵn, khôn ngoan có thừa.

Hồn mê mẩn, tính chưa chưa tính

Anh em ta phải tính sao đây?”.

(“Đề tỉnh quốc dân ca”)

“Hãy tính dậy đi!

Hãy đứng lên đi, gương mày mở mặt để rửa nhục cho sông núi”.

(Tân Việt Nam’ – Phan Bội Châu)

“Một tiếng gà vừa gáy, một tiếng hót của chim báo sáng, mừng xuân về,… âm thanh ấy mang ý nghĩa tượng trưng dự báo một thời kì mới, một bình minh mới, một mùa xuân mới sắp đến với dân tộc. Giọng thơ xôn xao, chào mừng:

“Bên án một tiếng gà vừa gáy,

Chim trên cây liền ngỏ ý chào mừng”.

Gà vừa gáy “một tiếng”, đêm dày chưa tan. Nhà thơ thao thức sống trong tâm trạng: “thẹn, buồn, tủi”…, không chỉ là “chua xót” mà là đã “từng chua với xót”. Nỗi cay đắng và chua xót tích tụ trong lòng bấy lâu nay; không chỉ một hai ngày mà là kéo dài nhiều năm tháng, từ ngày xuất dương dấy lên phong trào Đông du (1905) đến ngày bị giặc bắt (1925) và cho đến Tết năm 1927, đúng là đã “hai mươi năm lẻ”:

“Xuân ơi xuân, xuân có biết cho chăng?

Thẹn cùng sông, buồn cùng núi, tủi cùng trăng,

Hai mươi năm lẻ đã từng chua với xót”.

Nhà chí sĩ tâm sự, đối thoại với “xuân”, với “sông”, với “núi”, với “trăng” – những đối tượng ấy, là hồn thiêng đất nước. Một giọng thơ tha thiết. Đó là những lời tâm huyết, là “cái đồ tàn của con đỗ quyên” khắc khoải suốt đêm ngày. Đó không chỉ là nỗi đau, nỗi tủi, nỗi thẹn, sự chua xót của một người, mà còn là tâm trạng chung của cả một thế hệ, của cả một dân tộc đã và đang phải làm ngựa trâu cho giặc, cho thực dân Pháp.

Hai câu tiếp theo cũng là tâm sự của một tấm lòng thao thức. Năm 1925, Phan Bội Châu bị giặc Pháp bắt cóc ở Thượng Hải, đưa về Hà Nội kết án tử hình. Nhân dân ta, đặc biệt là thanh niên, học sinh khắp toàn quốc đã sôi sục đấu tranh, làm thất bại âm mứu đen tối và tàn ác của thực dân Pháp. Không giết được Phan Bội Châu, giặc Pháp đã đưa Cụ về giam lỏng ở Huế và Cụ đã trở thành “Ông già Bến Ngự”. Vì thế, Phan Bội Châu mới nói:

“Trời đất may còn thân sống sót

Tháng ngày khuây khỏa lũ đầu xanh”.

Trong cảnh thân tù bị giam lỏng, nhà chí sĩ vẫn không hao giờ quên thanh niên, vẫn gửi gắm vào thế hệ trẻ Việt Nam nhiều tin tưởng và hi vọng.

Lời chúc Tết cũng là lời kêu gọi thanh niên. Thanh niên phải “đổi mới”. Hai chữ “đổi mới” trong bài thơ mang một nội dung yêu nước sâu sắc. Trước hết, thanh niên phải:

“Đời đã mới, người càng nên đổi mới

 Mở mắt thấy rõ ràng tân vận hội

 Xúm vui vào xốc vác cựu giang san

Đi cho êm, đứng cho vững, trụ cho gan,

Dây thành bại quyết ghe phen liên hiệp lại”.

Tân vận hội là vận hội mới. Lúc bấy giờ (1927) phong trào đấu tranh chống thực dân, đòi độc lập đang dâng lên sôi sục, mạnh mẽ ở châu Á, châu Phi, nhất là ở Ấn Độ, Miến Điện, Trung Quốc… Thanh niên phải biết nhìn xa, nhìn rộng, “mở mắt” đón lấy thời cơ, đón lấy tân vận hội, đứng lên đồng tâm nhất trí “liên hiệp lại”, để cứu nước, cứu nhà: “Xúm vai vào xốc vác cựu giang san”. Đất nước bị ngoại bang thống trị, thế là “non sông đã chết”, hồn nước bơ vơ sầu tủi: “Hồn ơi! về với giang sơn” (Ái quốc). Còn đâu nữa “Cựu giang san”, còn đâu nữa giang sơn cũ, Tổ quốc bao đời. Đổi mới cách nhìn, đổi mới tư tưởng, nâng cao lòng yêu nước. Có như thế, thanh niên mới có thể “xốc vác cựu giang san “, phục hưng đất nước – một đất nước giàu đẹp, một dân tộc có truyền thông anh hùng, bất khuất chống ngoại xâm. Thanh niên phải có sức mạnh, có khí chí kiên cường. Chí khí ấy, sức mạnh ấy, theo nhà chí sĩ là phải “đi cho êm, đứng cho vững, trụ cho gan”, nghĩa là phải tự lực tự cường. Phan Bội Châu có một cách nói đầy ấn tượng và khích lệ làm bùng cháy lên ngọn lửa yêu nước trong tâm hồn thanh niên. Nói rằng văn thơ Phan Bội Châu là thơ văn tuyên truyền cách mạng, là lời tâm huyết sục sôi lòng yêu nước…, đọc “Bài ca chúc Tết thanh niên”, chúng ta cảm nhận sáng tỏ nhận xét ấy.

Sự đổi mới của thanh niên phải thể hiện sâu sắc ở mặt tâm hồn, và bằng hành động rất cụ thể:

“Ai hữu chí từ nay xin gắng hỏi:

Xếp bút nghiên mà tu dưỡng lấy tinh thần,

Đừng ham chơi, đừng ham mặc, đừng ham ăn,

Dựng gan óc lên đánh tan sắt lửa

Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ”.

Muốn làm được như thế, theo Phan Bội Châu, phải có hai điều kiện: Một là hữu chí, nghĩa là chí khí bất khuất, yêu nước; hai là phải gắng gỏi, phải quyết tâm phấn đấu. Nhà chí sĩ đã hướng vào bộ phận tiên tiến nhất, lỗi lạc nhất trong thanh niên thời bấy giờ. Cụ khuyên họ không nên, không được chìm đắm, đam mê vào con đường hưởng lạc. Chơi, mặc, ăn… là nhu cầu của thanh niên, nhưng không được đam mê, “đừng ham”, biến thành dục vọng tầm thường, quá đáng. Phải từ bỏ cách học tập cũ kĩ, lạc hậu, khoa cử hư đanh mà tu dưỡng lấy tinh thần yêu nước, tự cường. Biết nhục vì cả dân tộc đang phải làm nô lệ cho ngoại bang: “Vua là tượng gỗ, dân là thân trâu” (Đề tính quốc dân ca). Biết đau đớn chua xót vì nước mất, nhân dân lầm than. Trong bài thơ “Xuất dương lưu biệt”, Phan Bội Châu đã phủ định lối học “cử tử” lỗi thời:

“Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế

Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si”.

(Non sông đã chết, sống chỉ nhục

Hiền thánh đã vắng thì có đọc sách cũng ngu thôi).

Đó là quan điểm rất tiến bộ, một lời dạy rất sâu sắc đối với thanh niên về mục đích học tập. Học vì hư danh, học để sống trong thân phận nô lệ thì học cũng vô nghĩa.

Lời tâm huyết của Phan Bội Châu trong bài thơ này là lời kêu gọi thanh niên đem tài trí (óc) và lòng quả cảm để đập tan xích xiềng nô lệ, ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp (đánh tan sắt lửa). Phải đem xương máu để giành lại độc lập, tự do. Một cách nói mạnh mẽ, hùng hồn. Hình tượng dữ dội, đầy ấn tượng có giá trị khích lệ lòng yêu nước và tinh thần cách mạng:

” Dựng gan óc lên đánh tan sắt lửa,

Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ!”

Một người, một số ít người không thể cứu nước được. Mà phải nhiều thế hệ thanh niên, triệu triệu người, cả dân tộc mới có thể “xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ” được! Có biết bao anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống vì tự do. Biết bao con người ưu tú của dân tộc đã gan góc hi sinh chiến đấu, đã “xối máu nóng” trong suốt 80 năm trời để đất nước nở hoa độc lập, kết quả tự do như ngày nay. Qua những vần thơ chúc Tết thanh niên này, ta càng thấy rõ “Phan Bội Châu lúc nào cũng chủ trương dùng bạo lực cách mạng để đấu tranh giành độc lập, tự do để giải phóng dân tộc”. Đó là chủ trương rất đúng đắn.

Thơ là tấm lòng. Là sự nung nấu tâm hồn, chí khí. Là khúc tráng ca giục giã lên đường. Nhà chí sĩ với khát vọng tự do đã động viên thanh niên, những con người “hữu chí” lên đường xả thân cho đất nước thân yêu. Câu cuối bài hát nói nhà chí sĩ nhắc lại câu cổ ngữ trong sách “Đại học”, rút ngắn lại thành: “Nhật nhật tân, hựu nhật tân” (ngày một mới, lại ngày một mới) để khẳng định một chân lí, một bài học, dấy lên trong lòng thanh niên một luồng sinh khí, một tinh thần dân tộc, chỉ ra một tân vận hội đang đến với thanh niên.

“Bài ca chúc Tết thanh niên” đưực viết thành thể thơ hát nói phá cách tạo nên màu sắc thời đại và lịch sử. Mở đầu bằng ba tiếng: “Dậy! Dậy! Dậy”. Câu kết ngoài 6 từ như luật quy định, tác giả đưa vào 2 tiếng: ”Chữ rằng…” âm hưởng; chủ đạo của bài thơ là hùng tráng, mạnh mẽ. Nó không chỉ là bài ca yêu nước chống xâm lăng mà còn mang tính dự báo thần tình. Năm 1927, nhà chí sĩ viết “Mở mắt thấy rõ rằng tân vận hội…” – và chỉ ba năm sau, Đảng Cộng sản Việt nam ra đời, liền giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc. Bài thơ có tính giáo dục lòng yêu nước và động viên tinh thần cách mạng sục sôi đối với thanh niên Đương thời không ít thanh niên ưu tú của dân tộc đã ra đi cứu nước và sau đó trở  thành nhà cách mạng lỗi lạc từ ảnh hưởng của bài ca này.

Có bài thơ một thời những cũng có bài thơ muôn đời. Phan Bội Châu viết bài thơ cho thế hệ mất nước trước đây, thế nhưng ngày nay, đất nước ta đã hoàn toàn độc lập, thế hệ thanh niên chúng ta vẫn tìm thấy trong bài ca bao tư tưởngtình cảm tốt đẹp. Nghĩa là biến sức mạnh của lòng yêu nước để “Xúm vai vào xốc vác cựu giang san” hướng về một ngày mai đẹp vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, vì một xã hội văn minh. Phan Bội Châu mãi là tấm gương chói lọi về lòng yêu nước, là “bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập, được hai mươi triệu con người trong vòng nô lệ tôn sùng” (Nguyễn Ái Quốc). Thơ văn của Phan Bội Châu góp phần tạo nên sức mạnh thanh niên, sức mạnh Việt Nam:

Xem thêm:  Phân tích nét tương đồng trong thơ Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương

“Ai hữu chí từ nay xin gắng gỏi…”

Bình giảng bài thơ “Bài ca chúc Tết thanh niên” của Phan Bội Châu – Bài làm 4

Phan Bội Châu là một nhà thơ nổi tiếng của dân tộc Việt Nam, ông có rất nhiều những tác phẩm hay, và nổi tiếng trong đó bài thơ chúc tết thanh niên là một bài thơ như thế, nó đã mang đậm giá trị của việc thức tỉnh lòng yêu nước và đánh dấu tinh thần của những người thanh niên luôn luôn phấn đấu vì đất nước của mình.

Mở đầu bài thơ tác giả đã sử dụng từ dạy dạy dạy ở đây nó mang một ý nghĩa như thức tỉnh và đánh thức tâm can của những người thanh niên yêu nước, những người thanh niên cần có ý thức và trách nhiệm hơn với cuộc đời và sự nghiệp của chính mình, những điều đó đã mang lại những giá trị to lớn và ý nghĩa tốt đẹp nhất trong cuộc đời của mỗi con người, khi những tiếng gà gáy đã hót lên để chào mừng những năm tháng bình minh đang nở rộ:

Dậy! Dậy! Dậy!

Bên án một tiếng gà vừa gáy

Chim trên cây liền ngỏ ý chào mừng

Xuân ơi xuân, xuân có biết cho chăng?

Mùa xuân đã làm sáng bừng lên niềm tin và những lời chúc mừng đối với lưa tuổi thanh niên của đất nước, giá trị của nó mang đậm màu sắc tin yêu và có nhiều những lời ngỏ ý thuần khiết trong tâm can của mỗi người, trong cuộc đời của mỗi chúng ta ai ai cũng đều phải trải qua những năm tháng thanh niên và phấn đấu được trong cuộc đời của mỗi chúng ta. Những giá trị đó đã mang lại những nét riêng biệt và có nhiều ấn tượng sâu sắc cho con người.

Mùa xuân đã đến người người đang chào đón một năm mới với những niềm tin mới, nó đậm giá trị của cuộc đời và mang màu sắc, những tiếng chim cũng biết hót để chào đón chào mừng một mùa xuân đã đến, một năm mới đang bắt đầu đến và nhà nhà người người đang chào đón những năm mới ấm áp và hạnh phúc. Những lưa tuổi thanh niên đang ngày càng phấn đấu để tạo nên những giây phút hạnh phúc và cảm xúc có giá trị và niềm tin mạnh mẽ đối với con người.

Thanh niên của dân tộc đã trải qua những năm tháng chiến đấu đã hẹn thề cùng với sông với núi, cùng đã trải qua những khoảnh khắc cô đơn khi phải xa gia đình, xa quê hương để đến với những vùng đất lạ, khi thân may còn có thể sống xót đấu tranh hết mình để nguyện thề cùng với dân với nước, những lúc đó những vị anh hùng này cần phải tạo dựng nên những giá trị của cuộc sống và hạnh phúc của tất cả con người:

Thẹn cùng sông, buồn cùng núi, tủi cùng trăng

Hai mươi lẻ đã từng bao chua với xót

Trời đất may còn thân sống sót

Tháng ngày khuây khỏa lũ đầu xanh

Bao nhiêu năm tháng đã chiến đâu và hy sinh vì độc lập dân tộc của Việt Nam, những năm tháng chiến đâu hết mình khi phải chịu đựng những giây phút cô đơn và những mất mát đua thương không có gì có thể so sánh được, đó là những khoảnh khắc hạnh phúc và giá trị của con người. Đã cố gắng hy sinh và chiến đấu hết mình vì dân tộc của chúng ta, họ đã tạo nên những khoảnh khắc hạnh phúc, khi những giá trị đó tạo dựng nên cảm giác hạnh phúc và luôn luôn phải đấu tranh với lũ đầu xỏ, những tầng lớp thanh niên yêu nước, những người đầu xanh đã luôn phấn đấu vì một đất nước dân tộc. Những năm tháng họ đã hy sinh và chiến đâu để có thể vượt qua những năm tháng đau khổ và khó khăn nhất:

Thưa các cô, các cậu lại các anh

Trời đã mới, người càng nên đổi mới

Mở mắt thấy rõ ràng tân vận hội

Ghé tay vào xốc vác cựu giang san

Những năm tháng chiến đấu vất vả sự hy sinh cao cả của họ đã để lại cho đất nước bao yêu thương và những giá trị đó để lại cho mỗi người những cảm giác hạnh phúc khi đất nước chúng ta đã đang đổi mới, giang sơn đang ngày một đẹp và hoàn thiện hơn, những điều đó làm nên bao nhiêu giá trị về một đất nước có nhiều truyền thống và giá trị sống cao cả, những hoàn cảnh đó đã làm nên những nhịp sống, và những lời thưa gửi của các anh đã tạo nên và thông báo khi đất nước đang ngày một đổi mới, những vận hội mới đang mở ra trước mắt những con người những khoảng khắc hạnh phúc và giá trị nhất dành cho mỗi con người, chúng ta cần phải làm nên những điều có ý nghĩa và mang màu sắc của sự lung linh trong cuộc đời này.

Những năm tháng luôn luôn phải đương đầu với những đua khổ và cuộc đời của họ cũng luôn phải đối mặt với cái chết, nhưng họ vẫn luôn kiên trì và vượt qua mọi thứ, đó là những năm tháng đã mang lại cuộc đời hạnh phúc cho tất cả con người, mặc dù khó khăn vất vả nhưng họ vẫn luôn đi cho êm và đứng vững trước những sóng gió của cuộc đời

Ði cho êm, đứng cho vững, trụ cho gan

Dây đoàn thể quyết phen thành nghiệp lại

Ái hữu chí từ nay xin gắng gỏi

Gởi lốt xưa mà tu dưỡng lấy tinh thần

Tất cả những niềm tin yêu và sự cố gắng của họ luôn để lại cho con người những hạnh phúc mạnh mẽ và làm dạy lên tinh thần sống của tất cả mọi người, chúng ta cần phải làm nên những giá trị về niềm tin và sự sống đó luôn lan tỏa trong cuộc đời của mỗi người. Nhưng người có ý chí cao luôn luôn nâng cao tinh thần và trách nhiệm của mình đối với đất nước, đó là một cuộc sống có ý nghĩa và giá trị nhất của mỗi con người, chúng ta cần phải làm nên những điều mang lại ý nghĩa cho chính cuộc đời của mỗi người:

Chẳng thèm chơi, chẳng thèm mặc, chẳng thèm ăn

Ðúc gan sắt để dời non lấp bể

Xôi máu nóng để rửa vết dơ nô lệ

Mới thế này mới là mới hỡi chư quân

Chữ rằng: nhật nhật tân, hựu nhật tân.

Họ hy sinh những nhu cầu cần thiết cho một cuộc sống sung sướng để tham gia vào những lợi ích có giá trị và ý nghĩa nhất của con người, điều đó làm sáng tỏ lên những lòng quyết tâm sự hy sinh về một đất nước tươi đẹp. Họ đúc lại ý chí gan sắt để lập nên một đất nước hòa bình, một cuộc sống hạnh phúc và ấm áp nhất, những ngọn lửa tinh thần vẫn luôn sáng rực trong những khoảnh khắc hạnh phúc và có giá trị cho cuộc sống của mỗi con người.

Mỗi người luôn luôn biết sống và có ý chí phục vụ cho đất nước, những dòng máu đang sục sôi tinh thần và niềm tin quyết chiến về một đất nước hòa bình, ý chí lòng quyết tâm luôn luôn tạo nên những giá trị và hạnh phúc nhất trong cuộc đời của mỗi người.

Bài thơ chúc tết thanh niên có ý nghĩa to lớn đối với tầng lớp thanh niên Việt Nam, họ là những tầng lớp sẵn sàng hy sinh vì độc lập tự do cho dân tộc Việt Nam, những tầng lớp hạnh phúc và có ý chí quyết tâm mạnh mẽ.

Bình giảng bài thơ “Bài ca chúc Tết thanh niên” của Phan Bội Châu – Bài làm 5

Bấy giờ Phan Bội Ghâu về ở Huế mới hơn được một năm. Thực dân Pháp chưa siết chặt ngay việc giám sát ông. Ông hãy còn có những hoạt động gắn với quần chúng cách mạng, nhất là thanh niên học sinh, ông viết Văn tế Phan Chu Trinh, ông nói chuyện với học sinh nữ học Đồng Khánh… Trước Tết năm ấy, ngày 29 tháng 1 năm 1927, học sinh ở các trường trung học Huế nhờ ông Võ Liêm Sơn, một thân sĩ yêu nước, giáo viên trường Quốc Học, làm một bài ca trù đến mừng thọ ông. Nhân đó, ông đáp lại bằng bài này.

Vậy, nếu trong đời sáng tác của Phan Bội Châu có hai giai đoạn, giai đoạn ở nước ngoài, từ 1905 đến 1925, trong đó có những năm ông tự cho là đắc ý nhất là những năm 1905 – 1908 và giai đoạn bị giam lỏng ở Huế từ 1926 cho đến chết, thì bài này làm vào đầu giai đoạn sau, lúc ông đánh giá đời mình là:

Trời đất may còn thân sống sót

Tháng ngày khuây khỏa, lũ đầu xanh.

nghĩa là còn sống đó, nhưng chẳng làm được gì to lớn cho đất nước như ý ông mong muốn.

Bấy giờ, thực dân đang đẩy mạnh việc khai thác nước ta, cơ nghiệp của chúng ngày càng mở rộng, đô thị phát triển, quá trình tư sản hóa trong xã hội được khuyến khích, những hình thức sinh hoạt phương Tây dần dần xâm nhập, làn sóng ăn chơi đua đòi lan tràn, lôi cuốn không ít thanh niên, kể cả một số thanh niên học sinh. Trên văn đàn công khai lại đang có những điệu buồn rũ rượi của thứ thơ văn kiểu Giọt lệ thu, Một tấm lòng, Tuyết Hồng lệ sử. Tất cả đang làm cho thanh niên quên đứt thân phận nô lệ và chẳng còn nghĩ gì đến nhiệm vụ đối với nước nhà.

Được viết ra trong hoàn cảnh đó cho học sinh là thành phần tri thức của thanh niên, bài ca còn nhằm mục đích nào khác là nhân năm mới đánh thức họ dậy khỏi cơn mê của thường tình xã hội, mê ăn mê chơi, và thúc giục họ hãy lập chí, hãy rèn luyện để bước lên con đường mới mẻ là con đường lí tưởng hy sinh phấn đấu cứu nước cứu nòi.

Bài học lí tưởng đó là bài học lớn nhất của bài ca.

Đi liền với mục đích giáo dục ấy, đồng thời là hi vọng lớn lao đối với thanh niên, người viết, nhân xuân đến, lấy xuân mở đầu câu tâm sự: 3 câu đầu: là cảnh xuân của đất trời rộn rã; tiếp theo 5 câu: là tóm tắt một đời chiến đấu, nhiệm vụ không thành, nhìn lại chỉ buồn cùng tủi với non sông; sau đó mười mấy câu: là sự kì vọng ở thanh niên với lí tưởng cứu nước cao đẹp bỏ xa mọi thứ tầm thường thấp thỏi. Đó mới thật sự là cái mới xứng đáng với năm mới.

Nội dung như vậy khá phong phú. Cảnh và tình, câu tâm sự là lời khuyên răn, có nhận định tình hình trước mắt, có mong ước biến chuyển ở tương lai. Lại là lời xuân, lời chúc. Phải tươi vui, hào hứng, hòa được máu nóng với nhựa xuân, xuân tuổi trẻ. Cho nên lời thơ mượn cái rộng rãi, tự do, không hạn định chữ, hạn định câu, không đòi hỏi đối ngẫu, không gắt gao niêm luật, mà lại dồi dào êm điệu tự tình của thể ca trù, để được bộc lộ tương đối thoải mái. Nói tương đối vì, dù sao, đây cũng là lời nói trong hoàn cảnh có thực dân theo dõi, không phải hoàn toàn tự do như thời ở nước ngoài, “bút mặc” đang còn “tung hoành”.

Ba câu mở đầu:

Dậy! Dậy! Dậy!

Bên án một tiếng gà vừa gáy,

Chim trên cây liền ngỏ ý chào mừng.

Cảnh bình minh một ngày: Gà gáy đánh thức, chim chóc họa theo, ca mừng ngày mới. Nhưng cũng là cảnh Tết, cảnh xuân, bắt đầu một năm mới. Trong thiên nhiên, mọi vật hòa nhau trong một nỗi mừng mới, vui tươi rộn rã: tiếng gà vừa gáy, ngỏ ý chào mừng. Con người trước cảnh xuân mới cũng vậy: bỏ cái gì cũ, đón cái gì mới, tống cựu nghênh tân, hi vọng tốt lành ở năm mới.

Nhưng tại sao lại bắt đầu bằng một lời đánh thức, mà lại gấp gáp, hối hả? Dậy! Dậy! Dậy! Như có ai đang ngủ quá say, và người đánh thức đang nóng ruột? Té ra ở đây không phải chỉ có tiếng gà, tiếng chim đánh thức tạo vật và con người, mà còn có cả tấm lòng đang cháy bỏng vì việc nước việc non, đang trông mong ở đám thanh niên, mà họ thì đang còn trong giấc ngủ li bì. Cho nên bài thơ chúc Tết lại bắt đầu bằng một tiếng gọi tỉnh giấc.

Như trang nhạc khởi đầu bằng một nốt chủ đạo, đây cũng là một âm thanh định chiều chung cho cả bài: âm hưởng chung của bài thơ sẽ là âm hưởng thức tỉnh.

Năm câu tiếp theo:

Xuân ơi xuân, xuân có biết chăng?

Thẹn cùng sông, buồn cùng núi, tủi cùng trăng.

Hai mươi năm lẻ đã từng bao chua với xót.

Trời đất may còn thân sống sót,

Tháng ngày khuây khỏa lũ đầu xanh.

Thức tỉnh cái gì? Lấy gì mà thức tỉnh? Chim chóc thì reo vui mừng năm mới, mừng xuân. Còn con người Việt Nam đầu năm 1927 này chẳng lẽ chỉ biết làm như loài chim chóc sao?

Những năm 1925 – 1926 là những năm sôi nổi phong trào yêu nước, nhân dịp đấu tranh đòi không được xử tội Phan Bội Châu và trả lại tự do cho ông, nhân dịp để tang Phan Chu Trinh. Cũng những năm ấy, trên báo Hữu Thanh ở Hà Nội, Ngô Đức Kế vạch mặt yêu nước giả hiệu của Phạm Quỳnh; Huỳnh Thúc Kháng mở đầu khoá học của Viện dân biểu Trung kì đã đọc một bài diễn văn làm phấn chấn lòng người. Và xa xa, các phong trào đấu tranh của công nhân đồn điền, và trong bí mật, phong trào ra nước ngoài theo học lớp thanh niên do cách mạng vô sản lỗi lạc Lí Thụy chủ trì ở bên kia biên giới. Riêng ở Huế, việc học sinh đánh điện can thiệp cho Phan Bội Châu, câu trả lời đanh thép của cô giáo trường Đồng Khánh trước tên thanh tra mật thám về việc đánh điện ấv, phong trào truy điệu Phan Chu Trinh, các buổi diễn thuyết của Phan Bội Châu trước học sinh, phong trào bãi khóa ở các trường, việc một số thầy giáo bị đổi đi, hoặc bị huyền chức, hoạt động của “Học Xá Quảng Nam” vừa có tính chất khuyến học, vừa có tính chất yêu nước… tất cả như chưa phai mờ trong kí ức.

Vậy nên phải mượn dịp xuân này, đáp lại lời chúc chân thành bằng một tấm lòng càng chân thật hơn, và nhân đó nhắc đến trách nhiệm đối non sông đất nước.

Ba lần gọi xuân: Xuân ơi xuân, xuân có biết cho chăng? rất thân mật, như gọi một lòng bạn để cho mình gửi câu tâm sự. Xuân là ai? Xuân của đất trời thì không đáng trách. Còn xuân của dân tộc, xuân của tuổi trẻ, tức các bạn thanh niên, các bạn có biết cho chăng? Đâu phải là một lời than cho lợi ích cá nhân mình. Đây là tâm sự một đời lo toan cho nước. Lo toan, bôn tẩu một đời mà nay rút lại chỉ: một thẹn, hai buồn, ba tủi. Và cùng sông, cùng núi, cùng trăng. Sông núi còn đây, trăng sao còn đây; lời thề một đời còn đó, đinh ninh như trăng sao, sông núi, mà trách nhiệm nào có hoàn thành được mảy may! Tính lại hai mươi năm lẻ, từ 1905 ra đi đến 1927, đã từng bao chua với xót. 1905 – 1908 được mấy năm đắc ý; nhưng rồi 1908 Nhật giải tán học sinh Việt Nam, trục xuất ông, ông phải sang Thái Lan, Trung Quốc, có thời gian phải đi bán sách rong ở bến xe bến tàu đế kiếm ăn cho mình và cho đồng chí, rồi bị quân phiệt Quảng Đông bắt giam suýt chết… cho đến 1925 thì bị thực dân Pháp bắt cóc đưa về định xử tử…

Xem thêm:  Hãy thuyết minh về tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi

Ba câu thơ tóm cả một cuộc đời, như một lời nhận tội với non sông, tội quá lớn, nhấn ba lần mà thấy chưa đủ, như một nỗi đau, đứt làm ba đoạn nên lại càng đau: Thẹn cùng sông, buồn cùng núi, tủi cùng trăng. Cho nên còn dằn vặt, trăn trở, giày vò thêm, thấm tận tim gan, đắng cay tận đầu lưỡi: Hai mươi năm lẻ đã từng bao chua với xót. Thất bại, đắng cay như thế nên sống đây chẳng qua là sống sót, sống sót cái tấm thân, chứ còn trí tuệ, tài năng, hoạt động có còn gì! Và ngày qua tháng lại chỉ còn khuây khỏa với mấy đứa trẻ cháu đầu xanh trong nhà. Sau này, Trong lời cảm tạ cuối cùng, ông sẽ đọc: Những ước anh em đầy bốn biển, Ai ngờ trăng gió nhốt ba gian. Cái trống rỗng của cuộc đời đáng lẽ phải rộn ràng, sôi nổi, té ra từ đây ông đã thấm thìa.

Phải chăng đó là sự thất bại, đắng cay của một con người? Vâng, là một con người, nhưng đúng hơn, là một thế hệ, một giai đoạn cách mạng. Anh hùng nhưng không tránh được đau thương.

Gần mười năm sau Thế Lữ mới viết Nhớ rừng để nhớ một thời oanh liệt, và Huy Thông mới viết Con voi già để gợi lại một thời hào hùng đã qua. Lời thơ to tát nhưng yếu đuối. Còn đây là một sự đau thương từ gốc của nó mà ra.

Mượn vai xuân mà nói câu tâm sự của mình, nhưng từ câu tâm sự ấy mà xót đau cho một nhiệm vụ không thành, để thức tỉnh cho xuân. Nói mình nhưng để thia lia bắn đến bạn là như vậy.

Mười ba câu còn lại:

Thưa các cô, các cậu, lại các anh,

Đời đã mới, người càng nên đổi mới

Mở mắt thấy rõ ràng tân vận hội,

Xúm vai vào xốc vác cựu giang san.

Đi cho êm, đứng cho vững, trụ cho gan,

Đây đoàn thể quyết ghe phen liên hiệp lại.

Bỏ đối tượng giả thiết là xuân, đây nói với đối tượng trực tiếp đến chúc mình đang ở trước mặt. Ông già 60 (ông sinh năm 1867) nói chuyện với bọn trẻ mười tám, đôi mươi. Tại sao lại có cách xưng hô lắp đi nhấn lại có vẻ trịnh trọng như thế này?

Nhất định không phải là lời khách sáo.

Trong văn học không thiếu những cử chỉ lễ phép bất thường, đột ngột, vừa có ý nghĩa sân khấu vừa có ý nghĩa nhân sinh: cái lạy của Thúy Kiều đối với Thúy Vân, của Vân Tiên đối với Nguyệt Nga, của Vương Tư Đồ đối với Điêu Thuyền. Ấy không phải là lạy đích thân con người ở vai dưới trước mặt, mà lạy cái hi sinh cao cả ở con người họ, hi sinh cho một cái gì quý hơn mình, cao hơn mình, mà mình phải chịu ơn.

Ơ đây có lẽ không đến như vậy. Nhưng cái trịnh trọng trong xưng hô là cân ngang với cái trân trọng của mong ước, của kì vọng cao cả ở con người họ. Trách nhiệm lớn lao trước non sông đất nước mình không làm được, nay mình đem đặt vào vai những kẻ này. Việc ấy không lớn sao? Họ nhận lấy là họ thay mình, làm tốt cho mình. Họ không trở thành một đối tượng cao quý cho mình kính trọng, khâm phục, biết ơn hay sao?

Nhân năm mới sẽ nói đến cái mới. Cái mới bắt đầu từ bản thân con người. Trời đất, cuộc đời đổi mới mà con người vẫn cứ li bì trong cái cũ thì ích gì? Cho nên phải tỉnh dậy mà đổi mới.

Đi học mà nói đổi mới là nói cái gì? Cũng vẫn tiếp tục đi học, nhưng chắc là phải từ bỏ cái học với mục đích tầm thường “tối rượu sâm banh, sáng sữa bò”, và thỏa mãn với tương lai tôi đòi cho thực dân, để cho cái học của mình có ý nghĩa. Tức là nhìn thấy vận hội đất nước đang mở ra một thời kì mới trước mắt, và mỗi một thanh niên nên xúm vào một vai để xốc vác cho cái cựu giang san đang còn nóng lòng chờ đợi ở con cháu của mình. Mà không phải thô thiển, vụng về như thế hệ trước; phải đi cho êm, đứng cho vững, trụ cho gan, nghĩa là hành động cho khéo léo, kẻ địch không hề biết, và khi đã tìm được chỗ đứng thì phải bám cho chắc, cho vững, dù có phong ba bão táp cũng xuống tấn, mà trụ lại, gan góc, dạn dày, bất chấp mọi nguy hiểm, gian lao. Muốn được vậy, không thể nào không cùng nhau xây dựng thành đoàn thể để có đủ sức mạnh cho công cuộc đấu tranh vĩ đại vì Tổ Quốc, giống nòi.

Tân vận hội là thế nào? Trong bài thơ chưa thật rõ, nhưng trong tình hình bấy giờ chắc ai cũng hiểu. Cho nên cái gánh giang san, mỗi người phải một vai. Nặng lắm, lớn lắm, khó khăn lắm. Như người vác nặng trên vai mà leo đèo, chung quanh là vực là hố, phải hết sức thận trọng, hết sức quan tâm, hết sức kiên cường: đi cho êm, đứng cho vững, trụ cho gan. Tưởng chừng như trong từng bước, con người lấy nỗ lực chủ quan của mình làm quyết định, cứng rắn, vững bền cho từng bước tiến lên: đi đã hay đứng càng thêm tốt, và trụ lại càng quan trọng hơn.

Trở lên là phong trào, là mọi người, mọi thanh niên, đây là đi sâu vào tâm tư, ý chí từng người:

Ai hữu chí từ nay xin gắng gỏi,

Cởi lốt xưa mà tu dưỡng lấy tinh thần.

Chẳng thèm chơi, chẳng thèm mặc, chẳng thèm ăn!

Đúc gan sắt để dời non lấp bể!

Xối máu nóng rửa vết dơ nô lệ!

Chí ngày xưa vừa có nghĩa là lí tưởng vừa có nghĩa là một yếu tố tâm lí bảo đảm thực hiện được lí tưởng là ý chí, nghị lực, sức mạnh tinh thần. Vậy, ai có chí gánh vác giang san, kẻ ấy phải cởi lốt xưa – lốt xưa là cuộc sống an phận, tầm thường, thấp thỏi, sống như cây, quấn mình vào trong cái ăn mặc, cái vợ con, tiền tài, danh vọng, cởi lốt xưa ấy để nâng mình lên cao, tu dưỡng lấy tinh thần để thanh cao, cho hơn người, xứng đáng làm chiến sĩ cho quốc gia dân tộc. Tu dưỡng ấy sẽ là: Chẳng thèm chơi, chẳng thèm mặc, chẳng thèm ăn. Đừng hiểu lầm cái ý thậm xưng trong cách diễn đạt. Đây muốn nói: chẳng thèm chơi bời trác táng, chẳng thèm đua đòi mặc theo thời thượng, mà chỉ nên để sức lo cho nước nhà, chỉ nên thèm những cái khác, thèm đúc cho gan vàng dạ sắt, thèm cho việc được việc dời non lấp bể, thèm cho được việc xối máu nóng rửa vết dơ nô lệ. Ngày xưa có người say rượu mà nói: “Chí của ông say đâu phải ở rượu mà ở chốn nước non”. Phan Bội Châu nói về thơ tù cũng có câu: “Chí ông từ đâu phải ở chỗ làm thơ”. Ấy, đối với thanh niên, hữu chí là như vậy. Chí lớn, chí cứu nước. Đó là lí tưởng thanh niên, cao cả, hào hùng. Bởi vì đó là chuyện dời non lấp bể, rửa vết dơ nô lệ, nghĩa là thay chuyển tình thế, cởi ách nô lệ, nói trắng ra là giành độc lập cho dân tộc, đánh đuổi bọn thống trị ngoại bang, nhưng ở đây không tiện nói ra nhưng ai cũng hiểu.

Cũng bởi đó là chuyện lớn lao nên lời thơ đi suốt một hơi, toàn là thể cầu khiển, động viên: Cởi lốt xưa! Chẳng thèm chơi! Đúc gan sắt! Xối máù nóng. Và trong lời cầu khiển nó, một lần thứ ba, bài thơ lại nhấn lại điệp khúc đã hai lần hiện ra ở trên. Câu thơ đứt làm ba trong nhịp điệu:

Thẹn cùng sông, buồn cùng núi, tủi cùng trăng.

Đi cho êm, đứng cho vững, trụ cho gan.

và đây: Chẳng thèm chơi, chẳng thèm mặc, chẳng thèm ăn

nhưng mỗi lần mỗi khác. Lần đầu là một sự xót đau ba lần thấm thía. Lần thứ hai là một thái độ trách nhiệm ba lần thận trọng, ba lần nín thở lấy hết sức bình sinh. Câu thứ ba này lại là một sự từ chối ba lần lập lại nhưng lòng dặn với lòng, như thề độc sẽ rứt bỏ một cái gì cứ bám lấy mình mà mình nhất định phải trừ khử.

Đâu phải chuyện vu vơ, trừu tượng. Gởi một tờ báo hằng ngày như tờ Lục tỉnh tân văn vào những ngày trước và sau Tết Đinh Mão (1927) thì cũng thấy: Tiếng vang của các phong trào yêu nước và cách mạng trên báo chí công khai chỉ còn là một thứ hơi hướng leo pheo ở các kiểu Bàn về hiệp quần. Bàn về Tết tiết kiệm. Muốn cho một nước văn minh, người trong nước phải như thế nào? Người đàn bà và xã hội. Nhưng bên cạnh lại lòe loẹt hình ảnh thô bạo của một cuộc sống ăn chơi mà hiện thân là các thứ quảng cáo quyến rũ: bốn thứ rượu, ba loại thuốc, tiệm ăn, đồ trang sức… và tất yếu còn có thuốc chữa bệnh hoa liễu. Đặc biệt, số ngày 7 tháng 2 năm 1927 tức ngày mồng năm sau Tết, lại có bài Tin kinh đô tường thuật cái Tết ở Huế. “Ngoài dân đã phố phường thì năm nay rõ lắm thứ… Ở làng Gia Lạc, cách Huế 3km có họp chợ phiên, mỗi năm một lần, buổi mai hồi 9 giờ ngày mồng một tết cho đến 4 giờ chiều mới bãi. Chợ ấy tuy hàng hóa buôn bán không bao nhiêu, song người đi chợ thì đông, vì có ý đến chợ đó để xem nhau cách ăn mặc, kiểu trang sức, cho nên người ta đã đành mà người ngoại quốc ở nước này cũng đến xem đông lắm… Còn như ở kinh thành ngày mồng một Tết có hát tuồng ở các rạp, có bày những sòng bài bạc ở các tiệm khách trú và ở hai bên đường…”.

Cho nên, đứng về phía người khuyên, người chúc, thì đó là một lời chúc cao cả, sát thực tế trước mắt, đó là một kì vọng cao xa xuất phát từ một lòng tin mãnh liệt: Tin vào tương lai đất nước, tin vào thanh niên. (Ai nói thanh niên hay lay trời, trời phải rung, lay đất, đất phải chuyển, tôi không ngạc nhiên), đó là lời ông nói. Phía người nghe, người được chúc, thì đó là lời ông nói. Đứng về phía người nghe, người được chúc, thì đó là một niềm tin tự hào không gì lớn bằng, một món quà đẹp hơn muôn ngàn gấm hoa, đưa con người lên ngang tầm với lịch sử, xứng đáng là những “chàng trai trẻ, những gái yêu” của giống nòi (chữ của Tố Hữu), nhân ngày dầu xuân này. Chất lí tưởng tràn trề ở người chúc, ở người được chúc, ở lời thơ. Có lẽ trong phút giây đó, mọi người trong buổi gặp mặt này đã sống một phút hoa đăng của lòng yêu nước thắm tươi, hào hùng nhất.

Đến đây, niềm say sưa lí tưởng đã lên đến tột đỉnh.

Vì vậy mới có hai câu cuối cùng, như giải tỏa cho không khí căng thẳng ở trên, trở lại với sự tỉnh táo bình thường trước niềm xuân mới:

Mới thế này là mới hỡi chư quân.

Chữ rằng: Nhật nhật tân, hựu nhật tân

Duy cái mới đối với mọi người, đối với các bạn thanh niên, phải là cái mới như vậy. Và cứ như vậy, mỗi ngày lại càng phải mới hơn nữa. Thế là gạt phắt đi mọi cái mới thường tình người đời đem ra chúc nhau: Mới chức, mới tiền, mới tuổi thọ, mới nhiều con như Tú Xương đã có lúc bực mình văng lời mai mỉa. Cũng gạt qua một bên cái say sưa, mê nhiều hơn tỉnh, của một kẻ tài thơ nhưng ít tài đời như Tản Đà mà bấy giờ cũng đang là một sức hút đối với thanh niên, nhất là thanh niên học sinh:

Gặp xuân ta giữ xuân chơi

Câu thơ chén rượu là nơi đi về.

Với lời đánh thức như vậy là một lời đánh thức không phải cho một lúc mà lâu dài, đích đáng. Đánh thức một thế hệ cần thiết, vì một trách nhiệm còn cấp thiết hơn.

Tiếc rằng điều kiện lịch sử bấy giờ không cho phép nói cụ thể hơn, mà chỉ nói được khái quát và trừu tượng. Cũng tiếc rằng Phan Bội Châu cũng chưa có cách nói giản dị hơn, mà phải dùng phương pháp cách nói của phương pháp cổ điển truyền thống, khiến cho lời thơ không tránh được chúc ồn ào. Mặc dù vậy, vượt qua bao nhiêu hạn chế của thời đại, bao nhiêu ràng buộc của thực dân, trong bài ca chúc Tết này, nhân năm mới, lấy gương thất bại xót đau của bản thân, ông đã khích lệ lòng yêu nước của anh chị em thanh niên, đưa nó lên thành lí tưởng cao quý, anh hùng, với triển vọng chói lọi những hy sinh lớn lao, tạo ra một bài học vô cùng quý giá về phẩm chất con người Việt Nam biết dâng đời cho đất nước, dân tộc.

Để hiểu thấu tâm trạng của ông, gì bằng đọc thêm bài thơ Tạ ơn người cho lịch sử mới:

Quên lửng năm trời đã bấy nay,

Ơn người tặng lịch nhắc cho hay.

Á Âu xáo lộn đen pha đỏ,

Tân cựu phân minh tớ đội thầy.

Tháng Một đứng trên đầu tháng chạp.

Ngày Nam nằm dưới đít ngày Tây.

Xem trên mặt giấy càng thêm cám,

Năm mới đâu nào? Mới ở đâu?

Cũng là tâm trạng chất chứa đau thương căm giận trước bất kì một sự việc nhỏ nhặt nào mà thông thường người ta vô tình không hề để ý.

Có người cho La Fontaine là cây ngụ ngôn nên sinh ra quả là ngụ ngôn. Cũng ý ấy nhưng rõ hơn và sâu hơn, Lỗ Tấn nói: “Phàm chảy ra từ mạch máu là máu”. Phan Bội Châu là con người chứa chất máu yêu nước, cho nên lời nói ra không thể tránh được lời yêu nước. Càng thấm thía vì sao năm ấy ông lại có lời chúc Tết thanh niên như vậy.

Bài liên quan

Tìm hiểu về bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Tìm hiểu về bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm – Bài làm 1 Loading……
So sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều

So sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều

So sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều trong đoạn trích Chị em…
Phân tích tâm trạng nhân vật trữ tình trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu

Phân tích tâm trạng nhân vật trữ tình trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu

Phân tích tâm trạng nhân vật trữ tình trong bài thơ Vội vàng của Xuân…
Phân tích hai khổ thơ cuối bài Tràng Giang của Huy Cận

Phân tích hai khổ thơ cuối bài Tràng Giang của Huy Cận

Phân tích hai khổ thơ cuối bài Tràng Giang của Huy Cận – Bài làm…

Bình luận

Địa chỉ email của bạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *