Hãy phân tích bài thơ “Mời trầu” của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương – Bài làm 1
Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Mương mới quệt rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại,
Đừng xanh như lá bạc như vôi.
Người ta thường nói: văn là người. Chân lý ấy được minh họa đầy đủ và sâu sắc ở nhà thơ Hồ Xuân Hương. Đây là một cá tính độc đáo, một phong cách đặc biệt khác thường. Con người này làm thơ để ném ra cá tính ấy, phong cách ấy như một thách thúc đối với trật tự đẳng cấp nghìn đời mà kẻ ăn trên ngồi trốc là những “hiền nhân quân tử”, những vua và chúa, còn những người bị đặt dưới cùng là những người đàn bà thuộc tầng lớp bình dân. Không, đối với Hồ Xuân Hương không có trật tự trên dưới nào hết, ai cũng như ai, dù là nam hay nữ, dù là những người ‘tai to mặt lớn mũ áo xêng xang hay những bố cu mẹ đĩ, đều có quyền được sống, được mưu cầu hạnh phúc, được người đời coi trọng nhờ đạo đức và tài năng của mình.
Tất nhiên cá tính ấy không phải ngẫu nhiên mà có. Đấy là tiếng vang dội của cả một cao trào nông dân khởi nghĩa thế kỷ XVII, XVIII trên lỉnh vực ý thức thẩm mỹ thời đại.
Những điều kiện lịch sử thời Hồ Xuân Hương không cho phép đất nước chuyển sang một thời kỳ mới. Vậy là tính cách thì lớn nhưng khuôn khổ xã hội thì vẫn chật hẹp. Không khuất phục, không đầu hàng, Hồ Xuân Hương tuyên chiến với một thứ khuôn phép, chuẩn mực cửa xã hội đẳng cấp phong kiến đã trở thành trái tự nhiên, phi đạo lý, bằng những vần thơ ngang ngược, oái oăm, bằng cái tôi ngông nghênh kiêu ngạo của mình: “Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ – Lại đây cho chị dạy làm thơ – “Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo – Kia đền Thái thú đứng treo leo – Ví đây đối phận làm trai được – Thì sự anh hùng há bấy nhiêu”.v.v…
Tuy nhiên, nếu Hồ Xuân Hương là tiếng nói đanh thép, dõng dạc của phong trào quần chúng hùng mạnh, quyết liệt nhất thì đồng thời cũng là sự thể hiện nỗi ấm ách, bực bội không giải toả được của lịch sử một dân tộc tuy khủng hoảng sâu sắc nhưng chưa tìm ra lối thoát.
Cái ấm ách lịch sử ấy, ở bậc kỳ nữ này, lại bắt gặp, như là một định mệnh, cái ấm ách bực bội của một số phận cá nhân. Có người đàn bà nào tài hoa đến thế, giàu sức sống đến thế, khát khao tự do và tình yêu chân thật đến thế lại bị đày ải vào một cuộc đời éo le, bất hạnh đến thế: con vợ lẽ, hai lần lấy lẽ, hai lần goá chồng. Ta hiểu vì sao, đọc thơ Hồ Xuân Hương, thấy một tâm trạng đầy mâu thuẫn phức tạp: một tiếng cười ngang tàng thoải mái kéo theo những giọt nước mắt và tiếng thở dài…, một bản lĩnh dám một mình chọi lại với cả một xã hội đầy thành kiến hủ bại thâm căn cố đế, thậm chí thách thức với cả vũ trụ càn khôn. (Nín đi kẻo thẹn với non sông)… lại đồng thời là một tâm sự cô đơn, chồng chênh, chơi vơi, lênh đênh, có những lúc muốn nhắm mắt xuôi tay (Cầm lái mặc ai lăm đỗ bến -Dong lèo thây kẻ rắp xuôi dòng…) một tấm lòng son tươi rói trẻ trung, đầy ắp xuân tình, xuân sắc, lại đi liền với biết bao cay đắng tủi hờn của cuộc đời đàn bà đầy những ngang trái, dang dở, bẽ bàng…
Tất cả tâm trạng đẩy mâu thuẫn ấy nhiều khi được dồn nén lại trong khuôn khổ một bài thơ tứ tuyệt. Mời trầu là một trong những bài thơ như thế.
Mời trầu cũng như nhiều bài thơ khác của Hồ Xuân Hương thuộc thể tuyệt cú cổ điển. Đấy là một thể Đường luật thi, một thứ văn chương bác học. Nhưng đọc Mời trầu không ai có ý nghĩ đây là bài thơ Đường du nhập từ Trung Quốc vào qua những nhà trí thức Hán học. Có một cái gì thật là nôm na dân dã ở lời thơ hết sức bình dị và ở giọng điệu mộc mạc đến suồng sã :
Này của Xuân Hương đã quệt rồi.
Có thể diễn xuôi ra như thế này: Này nói cho mà biết, miếng trầu của Xuân Hương chỉ xoàng xỉnh thế thôi, nhưng là của Xuân Hương,’ chính tay Xuân Hương quệt vôi têm ra đó. Nó xoàng xĩnh thế thôi nhưng gói ghém trong đó cả cái tình của Xuân Hương đấy.
Người ta nói Xuân Hương đã bình dân hoá, dân gian hoá thơ Đường là như thế.
Bản thân tục mời trầu cũng là một nghi lễ rất dân gian và hình ảnh quả cau nho nhỏ thì rất đỗi quen thuộc trong ca dao dân ca. Thơ Xuân Hương, về phương diện này, dường như xuất phát từ một nguồn mạch với những “quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân…”, hay “mời anh xơi miếng trầu này – Dù mặn, dù nhạt, dù cay, dù nồng…” của những câu hát dân gian.
Ta gọi thế là chất dân gian, một vẻ đẹp riêng của thơ Xuân Hương.
Hãy phân tích bài thơ “Mời trầu” của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương – Bài làm 2
Thơ Xuân Hương cho đến nay vẫn hấp dẫn người đọc, cái thanh cái tục trong thơ bà đầy ẩn ý thế nhưng người ta không thể nào không thấy được những ý nghĩa nội dung mà bà muốn truyền tải qua những câu thơ của mình. Có thể nói rằng tài năng thơ ca của bà thật xứng danh với cái tên gọi mà người đời gọi bà đó chính là bà chúa thơ Nôm. Trong số những bài thơ Nôm ấy nổi bật lên bài thơ Mời Trầu mà qua đó ta thấy được những tâm sự những điều mà Xuân Hương trăn trở về cuộc đời của mình. Chuyện tình duyên và nỗi lòng người phụ nữ tài ba ấy được khắc họa rất rõ.
Bài thơ mời trầu chỉ có bốn câu thơ thôi nhưng lại chứa đựng biết bao nhiêu là tâm sự tâm tình của người phụ nữ mà cụ thể ở đây là Hồ Xuân Hương. Có thể nói rằng cả cuộc đời bà luôn bênh vực người phụ nữ cũng chính là bênh vực chính bản thân mình trong xã hội trọng nam khinh nữ ấy. Qua đấy ta có thể thấy được Xuân Hương quả thật là một người mạnh mẽ, bà có tiếng nói riêng đại diện cho những người phụ nữ. bai thơ mời trầu đã thể hiện rõ những nỗi lòng của bà chúa thơ Nôm.
Nhan đề bài thơ là mời trầu cũng mang những ý nghĩa truyền tải nhất định. Nhan đề là sự bộc lộ chủ đề của tác phẩm chính vì thế mà mỗi nhà thơ nhà văn đều đặt cho con tinh thần của mình những cái tên mang cả nội dung lẫn nghệ thuật. Hình ảnh miếng trầu kia đã mang đến cho chúng ta những liên tưởng về miếng trầu truyền thống gắn liền với những niềm vui như đám cưới, nó cũng gắn liền với những giá trị đạo đức tốt đẹp của con người Việt Nam trong sự tích trầu cau. Còn ở đây thì sao?. Miếng trầu ấy thể hiện được nỗi lòng Xuân Hương khao khát có một tình yêu thật sự, một hạnh phúc vợ chồng đời thường êm ấm, nồng đượm.
Trước hết hai câu thơ dầu nhà thơ nói về miếng trầu ấy và chủ nhân làm ra miếng trầu ấy chính là Xuân Hương:
“Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi”
Miếng trầu ấy có quả cau, có là trầu hai thứ ấy đi liền với nhau để làm nên một miếng trầu. Hình ảnh những miếng trầu têm xanh ngắt cánh phượng mới đẹp làm sao. Nó không chỉ đẹp mắt đẹp tâm tình mà còn đẹp cả tấm lòng người trao đi nữa. Quả cau thì nho nhỏ gợi lên cái hình ảnh nhỏ bé của miếng trầu nhưng lại rất đẹp. Sự nhỏ bé ấy hay cũng chính là sự nhỏ bé của thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa. Miếng trầu hôi không phải là nó có mùi hôi mà do lá trầu cay nên nói như thế. Hình ảnh miếng trầu có ngàn năm tuổi như thể hiện cho nguyện ước khát khao lứa đôi của bà chúa thơ Nôm. Người xở hữu miếng trầu ấy chính là nhà thơ. Từ “này” thể hiện được tiếng mời, tiếng xưng danh của Xuân Hương. Miếng trầu ấy mới quẹt xong, nó vẫn còn tươi xanh, ngọt bùi lắm. Miếng trầu của Xuân Hương không khác gì miếng trầu bình thường khác về hình thức nhưng miếng trầu ấy chất chứa biết bao nhiêu là tâm sự là nỗi lòng của người con gái kia. Đó chính là miếng trầu của lòng khao khát hạnh phúc lứa đôi của thi sĩ.
Sang đến hai câu thơ sau thì thi sĩ muốn gửi đến những lời nhắn nhủ cho những bậc quân tử trên cõi đời này rằng:
“Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vôi”
Chính nỗi khao khát tình yêu khiến cho nhà thơ mong muốn rằng người quân tử nếu có duyên với Xuân Hương thì bén lại chứ đừng bạc như vôi xanh như lá. Cái duyên trên cõi đời này được người xưa vô cùng tin vào nó. Không có duyên thì có gần gũi đến mấy cũng không thể nào có tình cảm yêu thương được nhưng có duyên thì lại thắm lại ngay. Không gần cũng yêu thương da diết vô bờ. Thi sĩ nói đừng xanh như lá bạc như vôi là có ý gì?. Lá cây bao giờ chẳng xanh, không xanh thì đâu còn là lá cây nữa. vôi thì màu trắng bạc rồi. Có thể nói ở đây nhà thơ đã sử dụng biện pháp so sánh kết hợp với lối nói cái tự nhiên vốn có để chỉ cái mong muốn trong tình yêu của con người. lá xanh thì tốt, vôi trắng bạc là đương nhiên nhưng con người mang những trạng thái đó thì không tốt. Bởi vì cái xanh cái bạc kia là để chỉ sự xanh rờn, sự bạc bẽo của con người với nhau. Chính vì thế Xuân Hương mượn ngay hình ảnh của lá trầu, vôi trắng mà gửi thầm cái nguyện ước nhắn nhủ của bản thân mình.
Bài thơ như một dòng nhật kí của thi sĩ, Xuân Hương đã viết vào đó những tâm tư tình cảm của mình. bà là luôn khao khát sống với hạnh phúc lứa đôi. Đó là một tình cảm thật sự chứ không phải là thứ tình cảm vợ lẽ, chính vì thế mà ta cảm thấy yêu quý hơn người phụ nữ tài ba ấy.
Hãy phân tích bài thơ “Mời trầu” của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương – Bài làm 3
Trong nền văn học việt Nam có biết bao nhiêu nữ thi sĩ gây được nhiều sự quan tâm và tiếng vang cho người đọc. Những bài thơ của họ không những nói số phận và những khát khao cháy bỏng của người phụ nữ mà còn thể hiện được tình cảm cá nhân của mình. Có lẽ nói đến những thì sĩ như thế ngoài bà huyện thanh quan chúng ta nhớ ngay đến Hồ Xuân Hương bà chúa thơ nôm của văn học trung đại Việt Nam. Thơ Xuân Hương có cái thanh nhưng cũng có cái tục cốt là để nói lên những tâm tư tình cảm của mình. ngoài những tác phẩm như chùm thơ tự tình, bánh trôi nước thì chúng ta còn biết đến bài thơ Mời Trầu của bà. có thể nói bài thơ đã thể hiện được tấm lòng khao khát tình yêu của Xuân Hương.
Bài thơ chỉ có bốn câu thơ thôi nhưng qua đó ta thấy được tất cả những cảm xúc khát khao của cá nhân nhà thơ Xuân Hương hay một phần nào đó cũng là khát khao của những người phụ nữ.
Trước hết là hai câu thơ đầu, nhà thơ của chúng ta đã mang đến những nét văn hóa của dân tộc từ ngàn đời nay:
“Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi”
Miếng trầu quả cau không chỉ xuất hiện trong thơ Xuân Hương mà còn xuất hiện từ trước đó và sau này. Tại sao thi sĩ lại chọn hình ảnh miếng trầu để nói lên những cảm xúc tình cảm trong mình. Miếng trầu ấy là miếng trầu trong ca dao xưa vẫn văng vẳng qua những lời ru của bà của mẹ, và đến sau này miếng trầu ấy là miếng trầu có bốn nghìn năm tuổi trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, la miếng trầu hàng hóa của người mẹ già trong thơ Hoàng Cầm nữa. Không những thế hình ảnh miếng trầu gắn với người quan họ Bắc Ninh. Đó chính là truyền thống văn hóa dân tộc ta và đã được thi sĩ mang vào thơ để nói cho mình. Miếng trầu ấy không thể thiếu trong những đám cưới của miền bắc nước ta. Xuân Hương nói rằng đó chính là miếng trầu hôi, quả cau nho nhỏ với miếng trầu hôi. Nói như vậy không phải là trầu cau có vị hôi mà là vị của trầu không thường rất hăng và cay cho nên thi sĩ đã khéo sử dụng tính từ “hôi” cho nó. Từ “này của Xuân Hương” như khẳng đinh hay mời mọc người quân tử đến ăn miếng trầu ấy. đó là miếng trầu của Xuân Hương chứ không phải của ai hết. Miếng trầu ấy vẫn tươi xanh, hãy còn ngon ngọt vì mới quẹt vôi. Qua đó nhà thơ muốn thể hiện tấm lòng mình thắm đượm như miếng trầu kia và sự tươi tắn giống như sự tươi tắn của miếng trầu ấy. Đó là một sự tự khẳng định phẩm chất của chính bản thân Hồ Xuân Hương.
Tiếp đến hai câu thơ cuối thì Xuân Hương lại muốn nói lên những tâm tình thật sự đồng thời nhắc nhở những bậc quân tử về chuyện tình yêu nam nữ và duyên phận trên chốn hồng trần này:
“Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vôi”
Sự tươi tắn và đẹp đẽ trong tâm hồn Xuân Hương giống như những miếng trầu cau kia vậy. Một vật tuy nhỏ cũng giống như số phận nhỏ của Hồ Xuân Hương khiến cho bà quyết định nói đến những tâm sự và ý nghĩ của cá nhân mình đối với những người quân tử có ý định tìm đến tình duyên với bà hay cũng như với những người phụ nữ khác. Nếu là duyên kiếp thì bén lại với nhau chứ đừng nên bạc bẽo như vôi, xanh như lá. Nhà thơ sử dụng từ “bén “ thật tinh tế và hay. Thi sĩ nói tình yêu kia phát triển đến với nhau như những cây cau sợi trầu kia bén rễ quấn quýt lấy nhau vậy. Người quân tử kia hãy biết trân trọng những tâm hồn của người phụ nữ như Xuân Hương vả chăng nếu đã thành duyên thành kiếp thì đừng bạc bẽo như màu của vôi và đừng xanh như màu của lá.
Qua đây ta thấy bài thơ chỉ vẻn vẹn có bốn câu thơ nhưng thật sự thì ta đã cảm nhận được hết những tâm trạng và nỗi lòng mà Xuân Hương muốn gửi gắm. Tất cả những dòng thơ những hình ảnh kia đều nhằm thay Xuân Hương nói những cảm xúc ấy. Và ta bỗng thấy trân trọng người phụ nữ này
Hãy phân tích bài thơ “Mời trầu” của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương – Bài làm 4
Nhiều người làm thơ về tình yêu. Nhiều nhà thơ được mệnh danh là “ thi sĩ của tình yêu”. Trong thơ của mình, họ thể hiện những cảm xúc, suy tư, những yêu thương, trăn trở…Những bài thơ tình là những cung bậc, những nỗi niềm riêng, khao khát hạnh phúc, yêu thương giận hờn…Những nhà thơ nữ lại có một cách thể hiện nội tâm hết sức nhạy cảm, tinh tế. Bài thơ Mời trầu của Hồ Xuân Hương là niềm khao khát hạnh phúc lứa đôi của một trái tim nồng nàn, đằm thắm, giàu cá tính – được thể hiện một cách chân tình.
Đi qua cuộc đời của Hồ Xuân Hương có khá nhiều người bạn tình nhưng cuối cùng vẫn không được bền lâu. Tình cảm xao xuyến của thời tuổi trẻ cùng những lời giỡn cợt của Chiêu Hổ, thoắt lại là cái kiếp làm lẽ tủi nhục trăm bề trong sự lạnh lẽo của Tổng Cóc. Bạn văn chương như ông phủ Vĩnh Tường cũng chỉ là mộng ảo ngắn ngủi. Trái tim yêu thương của Xuân Hương tưởng chừng tan nát vì sự trớ trêu đến thế. Bao đêm trường ôm hận một mình, xót xa tự an ủi Thân này đâu đã chịu già tom Xuân Hương đã cảm thấy chua chat, cay đắng cho mình cho những cuộc tình.
Bài thơ Mời trầu có lẽ ra đời trong giai đoạn nữ sĩ dựng quán nước kén bạn trăm năm. Thực ra, Xuân Hương đã ý thức được mình, đến độ chín chắn, cần một bạn chi kỷ hơn là những yêu đương nồng cháy thời tuổi trẻ. Bởi lẽ, nữ sĩ đã cảm nhận được sự lạnh giá cô đơn, rất cần một sự động viên an ủi, những lời nói tâm tình.
Rất trung thực, khiêm tốn và chân thành, Hồ Xuân Hương đã nói về mình hết sức thẳng thắn.
Quả cau nho nhỏ, miếnng trầu hôi.
Chỉ bình thường thế thôi, như bao điều đơn giản khác. Nhưng trong cái đơn giản ấy ẩn chứa một điều gì sâu xa. Đừng vội lầm tưởng ý xuân của Xuân Hương. Vâng, cái nho nhỏ, cái hôi ấy chỉ là cái vẻ bề ngoài thôi. Xuân Hương đã lấy cái hồn dân tộc Việt Nam thanh cao cau trầu keo sơn gắn bó mà nói về tình yêu của mình, độc đáo và thi vị. Nhưng, độc đáo tất có phong cách riêng – phong cách Hồ Xuân Hương.
Này của Xuân Hương mới quệt rồi.
Một cách thể hiện cái tôi của mình rất chuẩn nhị, độc đáo mà lại duyên dáng. Nhà thơ tự trải lòng mình, bày tâm tư, tình cảm một cách chân thật. Không! Tôi không hề giải dối hình thức. Một cách khách thể hóa cũng lạ kỳ, cảm động làm sao. Cái chân thành của Xuân Hương, như thế là đã hết mức rồi. Trong câu thơ còn mang một cách nói mới lạ, rất Xuân Hương: quệt. Một động từ độc đáo, chỉ ở con người cũng độc đáo, đầy cá tính một cách chặt chẽ, người đọc cảm thấy thú vị và yêu hơn cái quệt dễ thương, thấm đẫm tình ý ấy. Những động từ khác, giả sử được đưa vào thay thế, có lẽ và chắc chắn rằng không thể lột tả được cái ý, cái tình mà câu thơ gửi gắm.
Thế nhưng, sau tấm chân tình gần như bình thản ấy là một giọng nói nhẹ nhàng chất chứa bao cảm xúc, bao nỗi niềm.
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá, bạc như vôi.
Có phải duyên nhau – người ấy cùng tâm sự sẽ hiểu được Hồ Xuân Hương cần gì ở chữ duyên ấy.
Một người đồng cảm để cùng xướng họa, ngâm thơ, chia sẻ những buồn vui cuộc sống, một người bạn tri kỷ tri âm để có thể gắn bó, tin tưởng và yêu thương hết lòng. Trái tim người phụ nữ này chỉ cần như vậy mà cảm thấy sao quá đỗi khó khăn, xa vời. Nhiều lầnh cũng muốn dứt cho xong nhưng trái tim vẫn không ngừng khao khát, không ngừng ước muốn. Xuân Hương trong tình yêu, càng đắm say càng lo sợ một sự cách chia, phai bạc, dường như những người yêu tha thiết thường hay sợ một ngày mai không còn được nguyên vẹn tươi thắm như buổi ban đầu. Đọc kỹ hai câu thơ mới biết chủ ý của nhà thơ sợ người tình đến với nhau không bằng tất cả tình yêu và tấm lòng xanh thắm bền chặt. Như thế, còn gì đau đớn bằng ! Người như “ con thỏ giỡn với bong trăng” ấy phụ cả một niềm tin chân thành thì còn biết gì để nói nữa. Ca dao ngày xưa viết “ tưởng giếng nước sâu Em nối sợi gầu dài – Ai ngờ giếng cạn em tiếc hoài sợi dây”. Sự hòa hợp không gìn giữ một tình yêu chân thật thủy chung. Bài thơ gợi cho người đọc mối thương cảm đến xót xa. Ta bỗng trăn trở tự hỏi, lẽ nào một người như Hồ Xuân Hương mà ước nguyện chính đáng, thường tình lại không thành?
Bởi thế, trước những ngang trái trong đường tình duyên, trái tim khắc khoải, yêu nồng nàn của Xuân Hương lên tiếng đòi hỏi chính đáng. Đòi hỏi như vậy cũng chưa phải là nhiều lắm đâu. Ai yêu tâm hồn, tình cảm Hồ Xuân Hương bằng tất cả tâm hồn và tình cảm chân thành của mình, chắc chắn sẽ được nữ sĩ đón nhận – Hồ Xuân Hương tối kỵ sự giả dối, trong tình yêu không có sự giả dối, Hãy đến với nhau bằng tình yêu nồng thắm, chân thành, như thế cuộc đời, con người và tình yêu mới thực sự có ý nghĩa. Bài thơ Mời trầu, tình yêu của Hồ Xuân Hương đang chào mời. Người yêu thơ, yêu Hồ Xuân Hương , hãy đón nhận.
Hãy phân tích bài thơ “Mời trầu” của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương – Bài làm 5
Thông thường, những tác phẩm có tư tưởng lớn đều có hình thức mang tầm vóc lớn, đề tài cũng lớn. Những tác phẩm lấy đề tài nhỏ bé, hình thức xinh xắn chỉ đủ sức chứa đựng một tư tưởng quẩn quanh với cuộc sống sinh hoạt đời thường. Tuy nhiên, văn học cũng không hiếm những nghịch lý, làm nên sự kỳ diệu của nó. Đó là trường hợp những bài thơ đề tài nhỏ bé, hình thức xinh xắn nhưng chứa đựng những tư tưởng lớn, phá vỡ cái chật hẹp, ràng rịt của tư tưởng cũ kỹ, hà khắc; nâng niu một khát vọng mãnh liệt, chân thành. Bài thơ Mời trầu của Hồ Xuân Hương là một điển hình như vậy:
“ Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá, bạc như vôi”
Bài thơ ra đời vào những thập niên cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX. Cảm thức thẩm mỹ bấy giờ thường trọng vọng những bài Đường luật đạo mạo, cổ kính, với thứ chữ Hán được điểm tô lộng lẫy bằng vô số điển tích ngoại lai. Vậy mà Mời trầu, vẫn khuôn khổ một thất ngôn tứ tuyệt, nhưng vóc dáng đường hoàng là chữ Nôm, hồn dân tộc. Thứ chữ “nôm na mách qué” đó đã tạo một tầm vóc trẻ, sừng sững trên văn đàn, mang theo sinh khí của văn hóa dân gian Việt nam: ca dao, tục ngữ, thành ngữ,…
Thời đại này, các nho sĩ hầu hết là nam giới. Tài tử, văn nhân hầu hết là đấng “tu mi” ngâm hoa vịnh nguyệt, cố teo tóp cái bản ngã, để hòa tan, trộn lẫn vào “cái ta” nhợt nhạt, vô hồn. Vậy mà, trong lúc đó, tác giả của Mời trầu lại là nữ giới – một phụ nữ dám tung hê, bóc trần cái “hoa nguyệt” giả dối, phù phiếm. Nữ sĩ còn dám đường hoàng xưng “tôi”, “cái tôi” làm kinh ngạc, ngã ngửa bao đấng tu mi, những bậc “hiền nhân quân tử ”.
Bài thơ thật xinh xắn, chỉ hai mươi tám chữ. Đề tài lại nhỏ bé, chuyện mời trầu. Tưởng gì, “miếng trầu là đầu câu chuyện”. Từ thuở xa xưa, người Việt đã có tục ăn trầu. Người Việt vốn hiếu khách, lại hay giao tiếp, chuyện mời trầu nhau có gì đáng nói? Nhưng ngờ đâu, một tứ thơ lớn đã ẩn sau đề tài nhỏ bé ấy. Miếng trầu là vật để giao tiếp, đãi bôi . Nhưng miếng trầu còn là sự thắm đỏ của nghĩa tình, là sứ giả của tình yêu, là chứng nhân của tình chồng vợ:
“ Trầu này trầu nghĩa, trầu tình
Cho loan lấy phượng, cho mình lấy ta”
Hay là:
“ Có trầu mà chẳng có cau
Làm sao cho đỏ môi nhau thì làm”
Vậy, mời trầu ở đây đâu chỉ là hình thức giao tiếp. Mời trầu kỳ thực là mời tình. Nói đến tình là nói đến cõi tế vi, kỳ diệu của tâm hồn, của trái tim rồi! Mà chuyện tình, trong xã hội phong kiến, đâu phải là đề tài nhàn đàm lúc trà dư tửu hậu. Ở một góc nào đó, nó còn là điều cấm kỵ đối với các bậc mũ cao, áo dài. Đàn bà lại càng không được nói đến. Quyền mời trầu chỉ có ở đàn ông:
“ Ra đường bác mẹ dặn rằng
Làm thân con gái chớ ăn trầu người”
Thế mà, kinh khủng chưa, trong bài thơ này, người mời trầu lại là nữ giới, chẳng thèm che mạng cúi đầu. Cái lớn của bài thơ đã nằm ngay ở tư thế của chủ thể trữ tình rồi! Tinh thần phá vỡ định kiến “thâm căn cố đế ” đã nằm ngay ở cách đặt tựa đề và đề tài rồi!
Tuy nhiên, tiếng nói có sức mạnh phá vỡ ấy lại không hề “đao to búa lớn ”. Nó nhỏ nhẹ, ân cần, nồng nhiệt mà da diết, lắng sâu. Nó là một âm sắc trầm ấm của tiếng thơ táo bạo Hồ Xuân Hương.
Chúng ta thử xem nhà thơ mời trầu như thế nào:
“Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi ”
Chẳng cần một buồng cau trả ơn, chẳng màng trầu têm cánh phượng dâng mời hoàng tử, người phụ nữ chỉ có “quả cau nho nhỏ ”. Hẳn là ở đây, Xuân Hương đã hái một quả từ buồng cau dân gian rồi: “Quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân”,… Từ láy “nho nhỏ “ còn gợi một ảnh hình xinh xắn, dễ thương. Quả cau nhỏ, chắc hẳn bổ ra thành những miếng cau thanh. Đâu cần nhiều, bởi Xuân Hương đâu phải mời bọn phàm phu, tục tử. Lại kèm với quả cau là “miếng trầu hôi ”. Đâu rồi trầu quế, trầu thơm? Cớ sao lại chọn miếng trầu tầm thường, chẳng thơm, chẳng ngon mấy để mời? Có lẽ cũng chẳng phải là chọn, vì người phụ nữ có chi mời nấy, cốt yếu là mời bằng tấm lòng thành thực, với những cái vốn có của mình. Vả lại, người sâu sắc đâu dại gì đem cái sang trọng, đắt tiền để mời tình. Kẻ vụ lợi sẽ bị cái hào nhoáng, sang cả làm mờ mắt đi, cứ thế mà nhảy bổ vào cuộc tình. Tác giả của miếng trầu hôi, cũng như chủ thể trữ tình trong bài thơ, là phụ nữ từng trải, sâu sắc, nên thành ý ấy, dụng ý ấy, không chắc là không có.
Miếng trầu mời thật dân dã, tự nhiên, gợi cảm, chân thành, nhưng cách mời mới thật nồng nhiệt làm sao:
“Này của Xuân Hương mới quệt rồi ”
Xã hội phong kiến đâu chấp nhận “cái tôi ” với lời xưng trực tiếp như vậy. Thế mà, người phụ nữ ở đây lại dám tin vào chính mình, tự thừa nhận tấm tình của riêng cá nhân mình. Đã vậy, trầu vừa quệt là mời ngay. Hành động “mới quệt ” hết sức khiêm tốn và chân thành. Miếng trầu có thể không khéo léo cách têm nhưng là cả sự nồng hậu, chào mời. Người phụ nữ mang tên hương – mùa – xuân quả thật hết sức khát khao nghĩa tình giữa con người với nhau trong cuộc sống. Tấm lòng ấy đã chủ động trao tặng cho người sự chân thành, thắm thiết.
Nếu như hai câu trên, giọng thơ thật chân thành, nồng nhiệt, vồn vã, đầy khát khao thì ở hai câu sau, giọng thơ lại chuyển sang trầm lắng, đầy trăn trở, ưu tư:
“Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá, bạc như vôi ”
Hai câu thơ đầy màu sắc, đó là “xanh” của lá, “bạc” của vôi, pha trộn lại thì bạc và xanh đã hóa thành “thắm” rồi. “Thắm” là màu đỏ tươi của miếng trầu, mà cũng là thắm thiết, thắm tình – sắc màu của sự gắn bó, hòa hợp, chung tình. Nhà thơ đã khai thác tài tình ý nghĩa tượng trưng của màu sắc. Cái lá trầu và ít vôi, ăn chung với nhau thì rasắc thắm, “thắm lại ”. Nhưng tách riêng thì chỉ còn rời rã một màu xanh non nớt, lạnh lùng, chỉ còn màu bạc của sự bạc bẽo, bội bạc, hai lòng. Buồn thay cho sự chia lìa, bội bạc! Niềm khao khát ở đây sao mà ưu tư và buồn thấm thía. Đã vậy, những từ ngữ “có phải… thì… đừng … như…” chẳng khác con dao bổ cau, cứa vào lòng, cứa vào trái tim vốn quen đập với nhịp chân thật, chung tình. Nghệ thuật so sánh cuối bài thơ được hái từ giàn trầu thành ngữ Việt Nam: “xanh như lá, bạc như vôi ”. Ý thơ gợi ra một khát vọng đầy ưu tư, khắc khoải của một tâm hồn đã ít nhiều nếm trải dư vị chua chát, đắng cay của sự lạnh lùng, giả dối. Ngẫm lại cuộc đời, tâm sự của Hồ Xuân Hương, sao thấy bài thơ như là thân phận, số phận – đầy éo le, dở dang, trăn trở. Biết bao giờ, biết ai người sẽ “phải duyên nhau ”.
Cả bài thơ chính là một thông điệp gói trọn tâm tình, khát khao nồng thắm của một phụ nữ đa tài, tấm lòng rộng mở và muốn được vẹn tình. Tâm tình ấy, khát vọng ấy đã vang lên, trong trẻo và mạnh mẽ, mạnh dạn phá bỏ những định kiến tàn nhẫn, u ám của thời đại. Đó là tín hiệu đẹp cho sự đâm chồi, nảy tược của một ý thức cá nhân, của tinh thần đấu tranh đòi hạnh phúc cho người phụ nữ. Chắc rằng, tiếng vọng mời trầu của Hồ Xuân Hương đã băng qua thời gian, lay chuyển biết bao tâm hồn xanh xao, bạc bẽo tìm đến với nhau trong một tình yêu chân thật, hòa hợp, chung tình.
Hãy phân tích bài thơ “Mời trầu” của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương – Bài làm 6
Dân tộc Việt Namcó tục ăn trầu Miếng trầu là đầu câuchuyện”. Trong đời sống hằng ngày, nhất là trong ngày lễ Tết, cướisinh,…đều có sự hiện diện của trầu cau. Ca dao cũng có câu:
Gặp đây trao một miếng trầu
Miệng ăn môi đỏ dạ sầu đăm chiêu”.
Trầu cau là biểu tượng của nghĩa tình chung thủy, son sắt. Miếng trầu nhỏ bé đã trởthành một đề tài trữ tình trong văn chương của Hồ Xuân Hương. Mời trầu” chính là một lời nhắn gửi tếnhị của Bà chúa thơ Nôm đến người đời Hãysống có nghĩa tình, đúng với đạo lí”. Qua đó thể hiện nỗi khát khao cuộcsống hạnh phúc lứa đôi của một trái tim nồng nàn, đằm thắm, giàu cá tính– được thể hiện một cách chân tình.
Đi qua cuộc đời của Hồ Xuân Hương có khá nhiều người bạn tình nhưng cuốicùng vẫn không được bền lâu. Tình cảm xao xuyến của thời tuổi trẻ cùng những lời giỡn cợt của Chiêu Hổ, thoắt lại là cái kiếp làm lẽ tủi nhục trăm bề trong sự lạnh lẽo của Tổng Cóc. Bạn văn chương như ông phủ Vĩnh Tường cũng chỉ là mộng ảo ngắn ngủi. Trái tim yêu thương của Xuân Hương tưởng chừng tan nát vì sự trớ trêu đến thế. Bao đêm trường ôm hận một mình, xót xa tự an ủi bản thân mình. Xuân Hương đã cảm thấy chua chát, cay đắng cho mình, cho những cuộc tình đã trải qua.
Bài thơ Mời trầu có lẽ ra đờitrong giai đoạn nữ sĩ dựng quán nước kén bạn trăm năm. Thực ra, Xuân Hương đã ý thức được mình, đến độ chín chắn, cần một bạn chi kỷ hơn là những yêu đương nồng cháy thời tuổi trẻ. Bởi lẽ, nữ sĩ đã cảm nhận được sự lạnh giá cô đơn, rất cần một sự động viên an ủi, những lời nói tâm tình.
Hai câu đầu: Rất trung thực, khiêm tốn và chân thành Hồ Xuân Hương đã nói vềmình hết sức thẳng thắn. Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi”.Từ láy giảm nghĩa nho nhỏ” gợi hình dáng một quả cau xinh xắn, nhỏ nhắn, đáng yêu. Ở đây, Hồ Xuân Hương dùng từ trái nghĩa miếng trầu hôi” trái nghĩa miếng trầu thơm, trầu quế” thể hiện cách nói nhú nhường, nhí nhỏm, thân mật. Câu thơ tách ra hai vế: Quả cau nhonhỏ / miếng trầu hôi” Nói về hai đối tượng khác nhau nhưng đều tạo ra một món quà khiêm nhường để mời khách. Từ này” giúp ta hình dung ra cử chỉ nữ sĩ đang mời khách dùng trầu. Xuân Hương đã lấy cái hồn dân tộc Việt Nam thanh cao cau trầu keo sơn gắn bó mà nói về tình yêu của mình, độc đáo và thivị. Nhưng, độc đáo tất có phong cách riêng – phong cách Hồ Xuân Hương.
Người ta thường nói têm trầu”, ở đây nữ sĩ dùng quệt” Này của Xuân Hương mới quệt rồi”, cách nói rất giản dị nhưng rất đặc sắc khiến người đọc hình dung ra cử động nhẹ nhàng, dân dã, tạo được không khí cởi mở, chân thành, dí dỏm. Một động từ độc đáo, mới lạ, chỉ ở con người cũng độc đáo, đầy cá tính một cách chặt chẽ, người đọc cảm thấy thú vị và yêu hơn cái quệt dễ thương, thấm đẫm tình ý ấy. Những động từ khác, giả sử được đưa vào thay thế, có lẽ rằng khôngthể lột tả được cái ý, cái tình mà câu thơ gửi gắm. Tản Đà đầu những năm 20 của thế kỉ XX đã nhận xét rằng: Thơ Hồ Xuân Hương thật tinh quái, những câuthơ hay đọc lên đến ghê người”. Cólẽ vì cái độc đáo vì những động từ lạ Tản Đà mới nhận xét về bà như vậy.. Mộtcách thể hiện cái tôi của mình rất chuẩn nhị, khác thường mà lại duyên dáng. Nhà thơ tự trải lòng mình, bày tâm tư, tình cảm một cách chân thật, một cách khách thể hóa thật lạ kỳ, cảm động.
Hai câu cuối: Thế nhưng, sau tấm chân tình gần như bình thản ấy là một giọng nói nhẹ nhàng chất chứa bao cảm xúc, bao nỗi niềm.
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanhnhư lá, bạc như vôi”
Hồ Xuân Hương đưa ra một câu hỏi vừa đưa ra một yêu cầu Có phải duyên nhau thì thắm lại”. Từ thắm”sử dụng rất đắt. Duyên” theo quan niệm dân gian là sự ràng buộc lẫn nhau từ kiếp trước đến kiếp này, Hồ Xuân Hương muốn nói đến cái duyên ấy. Hai câu thơ đầu nói về chuyện ăn trầu, hai câu cuối chuyển sang chuyện duyên số, chuyện con người vậy mà ý thơ vẫn liền mạch, không gò bó chứng tỏ tài dùng ẩn dụ của nhà thơ đến mức tuyệt vời. Nhà thơ còn vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong câu kếtlàm cho ý thơ thật đặc sắc. Xuân Hương trong tình yêu, càng đắm say càng lo sợ một sự cách chia, phai bạc, dường như những người yêu tha thiết thường hay sợ một ngày mai không còn được nguyên vẹn tươi thắm như buổi ban đầu. Đọc kỹ hai câu thơ mới biết chủ ý của nhà thơ sợ người tình đến với nhau không bằng tất cả tình yêu và tấm lòng xanh thắm bền chặt. Như thế, còn gì đau đớn bằng !Người như con thỏ giỡn với bóng trăng”ấy phụ cả một niềm tin chân thành thì còn biết gì để nói nữa. Ca dao ngày xưa viết tưởng giếng nước sâu Em nối sợig ầu dài – Ai ngờ giếng cạn em tiếc hoài sợi dây”. Sự hòa hợp không gìn giữmột tình yêu chân thật thủy chung. Bài thơ gợi cho người đọc mối thương cảm đến xót xa. Ta bỗng trăn trở tự hỏi, lẽ nào một người như Hồ Xuân Hương mà ướcnguyện chính đáng, thường tình lại không thành?
Tóm lại bài thơ không chỉ đơn giản nói về duyên trầu mà Hồ Xuân Hương đã nói đến duyên phận của con người củangười phụ nữ thời phong kiến. Cái duyên ấy bấp bênh bạc bẽo như vôi. Như trong một số bài khác bà có nhắc nhiều đến duyên phận của người phụ nữ thân em vừa trắng lại vừa tròn/bảy nổi ba chìm với nước non” (Bánh trôi nước). Qua đó gợi lòng thương cảm tới những con người có niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi, một tình yêu son sắt thủy chung.
Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Mời trầu” với những ngôn từ giản dị mà giàu ý nghĩa của Bà chúa thơ Nôm đã không bó hẹp trong chuyện xã giao thường ngày mà còn đi sâu xa hơn vào tâm trạng, nỗi lòng của nữ sĩ. Chỉ bốn câu thơ mà như bao quát chuyện tình duyên lận đận của Hồ Xuân Hương. Do vậy mà Xuân Diệu đã đánh giá thơ Hồ Xuân Hương là “tót vời của nguồn thơ nôm na bình dân”. Sống trong xã hội phong kiến suy tàn, bà luôn hiểu nỗi thống khổ của người phụ nữ bị chà đạp. Điều đáng quý là nữ sĩ luôn phát hiện và biểu dương cái đẹp vô giá-tấm lòng son sắt, thủy chung mà người phụ nữ luôn trân trọng, giữ gìn.