Phân tích bài “Thơ Duyên” của Xuân Diệu – Bài làm 1
Hồn thơ Xuân Diệu luôn mở rộng ra cả đất trời và cõi người. Nó luôn khao khát được giao cảm với con người, thiên nhiên, vũ trụ. Thơ duyên biểu hiện điều ấy.
Thơ duyên chưa hẳn là bài thơ tình vốn rất đắm say sôi nổi trong thơ Xuân Diệu. Bài thơ có anh và em họ đi xa nhau như không quen biết. Em thì “điềm nhiên” anh thì “lững thững” và cả hai đều “vô tâm”.
Có lẽ duyên ở đây là “tác hợp cơ trời” của thiên nhiên, vũ trụ và lòng người. Sự hòa thơ, hòa nhạc âm thầm, mãnh liệt và đầy quyến rũ. Nó khởi đầu từ cái “buổi ấy lòng ta nghe ý bạn” để rồi nhìn đâu cũng thấy chiều mộng, nghe đâu cũng động tiếng huyền nó vô thanh với tác nhưng náo nức con tim.
Tất cả đều cặp đôi trong yêu thương đắm đuối, mỗi lúc một mãnh liệt, lơi lả. Chiều mộng thì hòa thơ với nhánh duyên, trên cây me thì cặp chim ríu rít như không biết buổi chiều mà ngỡ là sáng bình minh. Chim chuyền cành này qua cành khác, bầu trời trong xanh thì như đổ tràn ánh sáng như ngọc lấp lánh qua muôn lá, mùa thu tới thì khắp nơi như tiếng nhạc đón mừng (“động tiếng huyền” – tiếng huyền là tiếng đàn), con đường “nho nhỏ” thì đi với gió “xiêu xiêu”, cành hoang thì lả tả như có tình với “nắng chiều”, con cò trên ruộng thì như cảm thông với “Mây biếc về đâu bay gấp gấp” nên cánh nó cũng “phân vân”, chim cũng thế, hoa cũng vậy, tất cả đều giao hòa cảm thông như vốn có duyên với nhau tự bao giờ. Và tất nhiên con người cũng thế, anh với em tuy chưa quen biết nhau và cũng chẳng có mối lái gì (băng nhân) mà tự nhiên cũng cứ đi sóng đôi với nhau nhịp nhàng như “một cặp vần” trong bài thơ, thậm chí “Lòng anh thôi, đã cưới lòng em”…
– Cảnh trong thơ tươi tắn, trong sáng, tình trong thơ thì hòa hợp nhịp nhàng. Đây là một bài thơ vui tuy viết về một cảnh chiều thu. Trong thơ truyền thống, cảnh chiều mà lại là chiều thu thì nói chung là buồn. Thơ xưa nói đến cảnh chiều thì thường có chim mỏi về rừng, người lữ thứ tha hương thì nhớ nhà, chân bước vội. Còn mùa thu thì lá vàng rơi rụng, hoa sen tàn tạ trên các đầm ao… ở đây cảnh chiều thu lại vui. Xuân Diệu có bài thơ xuân không mùa, nghĩa là mùa nào cũng là xuân cả, vì xuân tự trong lòng nhà thơ tỏa ra trời đất bốn mùa:
“Một ít nắng, vài ba sương mỏng thắm,
Mấy cành xanh, năm bảy sắc yêu yêu.
Thế là xuân. Tôi không hỏi chi nhiều.
Xuân đã sẵn trong lòng tôi lai láng
Xuân không chỉ ở mùa xuân ba tháng…”
Nhưng cảnh thu thực ra cũng có cái vui của nó chứ, nhất là mùa thu ở một nước nhiệt đới như nước ta. Xuân Diệu là nhà “Thơ mới”, ông không nhìn cảnh vật theo công thức, ước lệ của thơ cổ, ông khám phá cái đẹp, cái vui của mùa thu có thật trên đất nước bằng con mắt chân thật của mình và thấy mùa thu rất thơ mộng: “Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên”, không khí mùa thu khô ráo và sáng, trời thu thì cao và trong xanh, khí hậu mùa thu không nóng và chưa rét, con người cảm thấy dễ chịu, tâm hồn thơ thới sảng khoái, gió rì rào trong lá cành, chim chóc ríu rít, nghe như đâu đây vang vọng lại tiếng nhạc của đất trời:
“Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên,
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền”.
Nhưng niềm vui của mùa thu không ồn ào mà êm ái dịu dàng. Phải có một tâm hồn lắng nghe, tinh tế và nhạy cảm mới thấy hết được. Nhà thơ đi giữa đất trời như đi giữa một “bài thơ dịu”, không dám ồn ào, chỉ “lững đững” trên đường, lắng nghe bước đi nhẹ nhàng êm ái và lặng lẽ của mùa thu:
“Ai hay tuy lặng bước thu êm”.
Và cũng lắng nghe nơi lòng mình niềm cảm thông với vạn vật và nỗi khao khát thương yêu, khao khát hòa hợp với mọi người, nhất là với cô gái nào kia ngẫu nhiên cùng bước lên đường.
– Trong thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh có một nhận xét rất tinh tế về Xuân Diệu: “… Sự sống muôn hình thức nhưng hình thức nhỏ nhặt thường lại ẩn náu một nguồn sống dồi dào. Không cần phải là con hổ ngự trị trong rừng xanh, không cần phải là con chim đại bàng bay một lần chín vạn dặm mới là sống. Sự bồng bột của Xuân Diệu có lẽ đã phát biểu ra một cách đầy đủ hơn cả trong những rung động tinh vi!”.
Bài Thơ duyên là một trường hợp Xuân Diệu bày tỏ sức sống của mình trong những cảm nhận hết sức tinh vi về thiên nhiên và sự sống. Nhìn chung cảnh thơ yên tĩnh mà vẫn có một cái gì xôn xao từ trong lòng sự vật, chỉ cảm thấy được nhưng khó phân tích, diễn giải cho rõ ràng:
“… Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền”
“… Con đường nho nhỏ, gió xiêu xiêu
Lả tả cành hoang, nắng trở chiều”.
Bình hai câu thơ trên, Hoài Thanh viết: “Cảnh như muốn theo lời thơ mà tan ra. Nó chỉ mất một tí rõ ràng để được thêm rất thơ mộng”.
Thiên nhiên đúng là có hồn, nó lặng lẽ vận động, nhưng chỉ là những biến thái tinh vi không thể gọi tên ra được. “Nắng trở chiều” là màu sắc thế nào? Thật khó nói rõ ra được.
Sự cảm nhận còn tỏ ra tinh vi hơn nữa trong mấy câu thơ này:
“Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân
Chim nghe trời rộng dang thêm cánh
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần”.
Hoài Thanh viết: “Từ con cò của Vương Bột lặng lẽ bay tới ráng chiều (“Lạc hà dữ cô lộ tề phi – Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc”, dịch là: “Ráng chiều và cánh cò đơn chiếc láng bay – Nước mùa thu cùng trời thu một sắc”) đến con cò của Xuân Diệu không bay mà cánh phân vân, có sự cách biệt của hơn một ngàn năm và của hai thế giới”.
Sự cách biệt ấy thể hiện ở chỗ, một đằng thì tả sự vận động bên ngoài, mắt thường thấy được, một đằng thì cảm nhận được sự vô hình, chỉ mới có trong gân cốt của cánh cò.
Cũng như vậy: “Chim nghe trời rộng dang thêm cánh – Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần”, nhà thơ dường như nhận thấy cái cảm giác trống trải rợn ngợp của con chim trước không gian cao rộng, và cái cảm giác se lạnh của bông hoa khi sương chiều buông xuống…
Bài thơ giúp ta hiểu được ở Xuân Diệu một hồn thơ yêu đời, yêu sống, khao khát giao cảm với thiên nhiên, với con người. Nó cũng giúp ta cảm nhận được một cảnh vật thu tươi tắn, trong trẻo thơ thới, êm ả, dịu dàng, như gợi mát tâm hồn ta. Nó còn giúp ta mài sắc cảm giác của mình để biết kĩ lưỡng hơn, tinh tế hơn với cuộc sống này trong mỗi giây phút của đời mình.
Phân tích bài “Thơ Duyên” của Xuân Diệu – Bài làm 2
Xuân Diệu là một hồn thơ mãnh liệt, sôi nổi, khống bao giờ để lòng khép kín, luôn rộng mở với đất trời, với cuộc đời. Đó là một tâm hồn đam mê sống, đam mê yêu, khát khao được hòa hợp với đời, với tạo vật và với con người. Giữa những bài thơ buồn cùa Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám, hiện lên sáng chói một “Thơ duyên” .(Trích trong tập “Thơ thơ” – 1938) hổn nhiên, tươi mát, yêu đời và thề hiện được niềm giao cảm mãnh liệt ấy. Bài thơ có nhan đề là “Thơ duyên” – “Thơ duyên” chứ không hẳn là thơ tình vì tình yêu trong thơ Xuân Diệu bao giờ cũng đắm say, vội vàng, sôi nổi
“Trời ơi! Ta muốn uống hồn em”.
Hoặc:
“Làm sao sống được mà không yêu
Không nhớ, không thương một kẻ nào”
Còn ở bài thơ này, tuy có “anh” và có “em” nhưng chỉ là ”vô tâm”, đó đâu phải là tình yêu nhưng lại có duyên. “Duyên” ở đây có nghĩa là sự giao hòa, là tương giao màu nhiệm của vũ trụ, của cỏ cây và của con người. Đối với nhà thơ, giao cảm với cuộc đời là niềm hạnh phúc tuyệt diệu mà con người được ban tặng trong cuộc sống trần thế này.
“Thơ duyên” viết về cảnh thu dưới con mắt của một chàng trai vừa mới lớn “lần đầu rung động nỗi thương yêu”, tâm hồn đang tràn ngập yêu thương, đôi mắt “xanh non” ấy nhìn đấu cũng thấy sức sống hiện lên, bao trùm khắp cõi đời duới mọi hình thức, đâu đâu cũng thấy thắm đượm tình yêu thương đằm thắm, tươi tắn và hồn nhiên tất cẳ như có duyên với nhau tự thuở nào. Cảnh và tình trong bài thơ thật đẹp, một chiều thu thơ mộng, trong mát thật duyên dáng – tất cả như cổ sự giao hòa nhịp nhàng và có duyên nợ với nhau:
“Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên
Cây me ríu rít cộp chim chuyền
Đổ trời xanh ngọc qua muốn lá
Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền”
Một sự hòa hợp tuyệt diệu: Một buổi chiều mộng mơ, bầu trời trong xanh và như có gió nhọ nhàng dung dưa, những cành cây mềm mại, có vẻ yếu đuối nhưng rất có duyên. Từng cặp chim ríu rít chuyền trên những cành me, chúng quấn quýt bên nhau có đôi, có cặp trong yêu thương đầm ấm, vui tươi. Thu đến, khắp nợỉ nhộn nhịp, rộn rã, không gian như vang tiếng khúc nhạc của đất trời.
Chiều thu đó, không tàn tạ mà duyên dáng, không kiêu sa lộng lẫy mà quen thuộc, giản dị, dịu dàng và rát gợi cảm. Ánh sáng đổ tràn xanh như ngọc lấp lánh qua muôn ngàn lá. Không khí ở đây không lạnh như mùa đông, không nồng như mùa hạ khiến tâm hồn con người sáng khoái, dễ chịu.
Trước Cách mạng tháng Tám, thật hiếm có một chiều thu trong sáng, tươi tấn như thế trong thơ Xuân Diệu mà chỉ có sự mông lung, xa xăm và buồn vắng:
“Êm êm chiều ngẩn ngơ chiểu
Lòng không sao cả hiu hiu khẽ buồn”
(“Chiểu” – Xuân Diệu)
Chiều “Thơ duyên” không vẩn một chút u sầu, ngược lại rất vui tươi, hổn nhiên, trẻ trung và yêu đời.
Con đường mùa thu xinh xinh, nhò nhắn và gió hiện ra có ảnh, có hình cùng sóng đôi với nhau. Cành lá và nắng hiện lên như sự huyền diệu của đất trời, tất cả đi vào cõi “thương yêu” của nhà thơ tình yêu:
“Con đường nho nhỏ gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang nắng trỏ chiều
Buổi ấy lòng ta nghe ỷ bạn
Lẩn đẩu rung động nỗi thương yêu
Con đường, cành lá và cà nắng gió của đất trời đều ỉà những hình ảnh có hồn, có tâm trạng. Mùa thu ở đây có vui, có xôn xao, nhưng không ồn ào, náo động mà rất hồn nhiên, dịu dàng, êm ái. Cảnh vật như tạo cho con người một cảm giác lâng lâng, thích thú, vui tươi và rất dễ chịu. Phải chăng, đó là nét yêu đời rất dáng quý trong “Thơ duyên”.
Cảnh vật, trong mối giao hòa với nhau và con người cũng vậy. “Anh” và “em” nào có quen biết nhau, nhưng tự nhiên cứ đi sóng đôi với nhau ‘như một cập vần”, không hẹn mà nên trong suốt bài thơ:
“Em bước điểm nhiên không vướng chân
Anh đi lững đững chẳng theo gần
Vô tâm – nhưng giữa bài thơ dịu
Anh với em như một cập vần”
Nhà thơ đi giữa đất trời mà như đi giừa chốn dịu êm – đi giữa một bài thơ dịu”, không ồn ã, chỉ “lững đững”, chỉ chầm chậm để có thế lắng nghe những bước đi rất nhẹ, rất khẽ và cùng rất lâng lẽ cùa mùa thu. Và có lẽ, nhà thơ cũng đang nghe nơi lòng mình niềm cảm thông với vạn vật và nỗi khát khao yêu thương, khát khao được cởi mở , được chia sẻ với đời, với mọi người – nhất là với cô em nào kia ngẫu nhiên đang bước trên đường. Họ đi như cách xa nhau: Em thì “điềm nhiên”, còn anh thì “lững đững” và cà hai đều “vô tâm”, nhưng hình như cà hai muốn xích lại gần nhau. Bởi lẽ trong hai bóng “điềm nhiên” và “lững đững” ấy đều như có một chủ định muốn hòa hợp cùng nhau. Tất cà đều sóng đôi, gắn quyện, tất cả như một bức thư tình, với giai điệu nhịp nhàng, êm dịu – một bài thơ của tình yêu cuộc sống trong cảnh vật đã hòa với nhau, người với người, anh” và “em” cùng ăn nhập với nhau như “một cập vần”.
Với một tâm hổn nghệ sĩ khát khao, giao cảm với đời, yêu đời đến thiết tha, mặn nồng, điều đó đã giúp cho Xuân Diệu khám phá được những nét tinh túy của thiên nhiên , con người để đọng lại trong cuộc đời những vần thơ súc tích, hồn nhiên, tươi vui đến như vậy.
Cảnh vật trong “Thơ duyên” rất vui tươi huyền diệu, chẳng khác gì mùa xuân vì lòng người vui thì cành cùng vui nên Xuân Diệu đã có “Xuân không mùa”, xuân như có cả trong năm. xuân từ trong lòng mà tòa ra đất trời:
“Một ít nắng, vài ba sương mỏng thăm
Máy cành xanh, dăm bảy sắc yêu yêu
Thế là xuân. Tôi không hỏi chi nhiều.”
(Xuân không mùa – Xuân Diệu)
Mùa xuân thường là biểu tượng của cái đẹp, sự tươi tắn, trong trẻo. Còn thu, Xuân Diệu đã nhận ra cái vẻ đẹp, cái êm à vốn có cùa nó bằng con mắt trẻ trung, hồn nhiên cùa mình. Chiều thu trong “Thơ duyên.” có cao, có thanh, có trong xanh, có cả sự nhộn nhịp, ríu rít cùa tinh yêu đời, của tình yêu cuộc sống. Vả khi nói đến con người, nói đến “anh” và ‘ em“ thì tám hồn của nhà thơ đồ rung lên một cách nồng nàn, say đắm:
“Ai hay tuy lặng bước thu êm
Tuy chẳng băng nhân gạ tỏ niềm
Trồng thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy
Lòng anh thôi đã cưới lòng em”
“Anh” và “em” dẫu rằng chưa hề quen biết nhau, chưa có một lời mai mối nào vẫn cứ cần một sự kết đôi, vẫn cháy khát một sự gắn quyện, hòa hợp, vẫn nghe ra một tâm hồn đồng điệu, có lẽ là “phải lòng nhau”. Nhà thơ như lắng nghe được bước đi dịu nhẹ cùa mùa thu. Và tình người ờ đây cũng dịu nhẹ như cái dịu nhẹ của mùa thu vậy, thẳm sâu trong đó là xôn xao một niềm khao khát.
“Thơ duyên” chưa hẳn là một bài thơ tình yêu nhưng tình yêu trong thi phẩm vẫn đẹp như bài thơ giữa không gian dịu êm cùa mùa thu đáng yêu ấy. Ta nghe ra như một đám cưới của lòng nhưng rộng hơn là một điệu sống khát khao giao cảm với cuộc đời. Cành trong “Thơ duyên” thì tươi vui, hiền dịu, ấm áp, còn tình trong “Thơ duyên” thì hòa điệu nhịp nhàng êm ái, thanh khiết. Bức tranh thu ấn chứa cái duyên của sự sống, ẩn chứa một tình yêu rạo rực, xôn xao.
Tóm lại, thơ Xuân Diệu là rung động và từ những rung động như nhặt được của đời đã chất chứa một nguồn sống dồi dảo, rạo rực và ngân vang. Đọc “Thơ duyẽn”, ta tháy một Xuân Diệu hồn nhiên, vui tươi, dạt dào niềm yêu say cuộc sống, khát khao giao cảm vơi thiên nhiên, tạo hóa. Vẻ đẹp cùa cảnh chiều thu êm ả, trong trẻo, tươi mát trong bài thơ hiện ra trước măt chụng ta như giúp ta hiểu được giá trị của cuộc sống và phải biết yêu thương quí trọng những cái gì mả cuộc đời ban tăng cho mỗi chúng ta.
Phân tích bài “Thơ Duyên” của Xuân Diệu – Bài làm 3
Xuân Diệu đã viết về mùa xuân với tất cả sự say đắm, nồng nàn:
… “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần…
… Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi”…
Thi sĩ cũng đã đến với mùa thu trong bâng khuâng, man mác. Viết về mùa thu, Xuân Diệu có một lối nói riêng đầy thi vị, tứ thơ mới mẻ, cảm nhận tinh tế nhẹ nhàng cái hồn thu của đất trời, quê hương xứ sở. “Thơ duyên” là một bài thơ thu độc đáo nhận diện cảnh thu, tình thu qua tâm hồn thơ mộng của một chàng trai đa tình và tài hoa lãng mạn.
“Thơ duyên” – một thi đề rất thơ. Cái “duyên” được thi sĩ nói đến là sự tương giao nhiệm mầu của vũ trụ, thiên nhiên và con người, trước hết là những chàng trai, cô gái “hồn xanh như ngọc bích”.
Một buổi chiều thu tuyệt đẹp – “chiều mộng” – êm ái, nhẹ nhàng như ru, tạo vật như đang “hóa thơ trên nhánh duyên”. Nhành cây mềm mại đung đưa duyên dáng theo làn gió thu nhẹ giữa sương khói tà dương. “Con gió xinh thì thào trong lá biếc” (“Vội vàng”), cả một trời thu “nơi nơi động tiếng huyền”. Tiếng nhạc, tiếng đàn du dương, dịu ngọt như ru hồn người vào cõi mộng. Tiếng gió hoà điệu với tiếng chim ríu rít. Trên ngọn me “cặp chim” vừa chuyền cành vừa hót, biết bao âu yếm và yêu thương. Cây me cũng như cây sấu là hình ảnh thân thuộc của đường phố cổ Hà Nội. Ta như được sống lại phố cũ yêu thương của đất Tràng An hơn nửa thế kỉ trước. Đã từng biết “khúc nhạc thơm”; “khúc nhạc hường”, giờ đây ta lại được thưởng thức “tiếng huyền” của buổi “chiều mộng”:
“Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên,
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Đồ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền”.
Cảnh thu có gió reo, chim hót. Còn có trời thu xanh trong, đẹp như ngọc; tất cả màu xanh ấy của trời thu như “đổ” xuống, như tràn qua muôn lá, cỏ cây ánh ngời lên sắc ngọc với trời thu, sắc ngọc ấy ai có thể quên? Sau này, thi sĩ Hàn Mặc Tử cũng viết trong bài “Đây thôn Vĩ Dạ”: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”… Màu ngọc của lá cũng là sắc thu làm nên cái hồn thu.
Khổ một nói đến gió, cây và cặp chim chuyền – cảnh vật hòa hợp tương giao, gắn bó; cái “duyên” ấy được cảm nhận qua tâm hồn một thi sĩ hào hoa, đa tình . Khổ hai nói về con đường và trái tim “rung động nỗi thương yêu”. “Nhỏ nhỏ”… “ xiêu xiêu”… “lả lả” – bây nhiêu nét vẽ tinh tế hiện lên trên một gam màu vàng nhạt của ngày thu tàn “nắng trở chiều”. Hồn thu của bức tranh quê gợi một nỗi buồn đẹp. “Buổi ấy”, trái tim “ta” xao xuyến, “rung động” một tình thu. Thi sĩ đi giữa đất trời, lắng nghe tiếng đập nhẹ của con tim, tâm hồn rộng mở giao hòa đi vạn vật, với con người, một thiếu nữ đang nhẹ bước trên đường:
“Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu,
Lả lả cành hoang nắng trở chiều.
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
Lần đầu rung động nỗi thương yêu”.
“Em” và “anh” cùng dạo bước trên đường. “Em” bước đi “điềm nhiên”, trông tự nhiên, hồn nhiên, duyên dáng. Anh cũng đang say sưa ngắm cảnh đất trời, bước chân “lững đững” – thong thả, ung dung. Cuộc ngẫu gặp của đôi lứa thanh tân, tưởng “vô tâm” mà hình như đã có cái “duyên” trời sắp sẵn. Chẳng hò hẹn gì mà nhiều bâng khuâng!
“Em bước điềm nhiên không vướng chân
Anh đi lững đững chẳng theo gần”.
Cặp câu song hành bình đối nhiều ý vị “Anh với em” đẹp như một cặp vần trong “bài thơ dịu”. Cặp vần ấy ngân lên “rung động nỗi thương yêu”. Một so sánh độc đáo nói lên cái “duyên” lứa đôi:
“Vô tâm – nhưng giữa bài thơ dịu,
Anh với em như một cặp vần”.
Cảnh vốn đẹp, giờ thêm người đẹp, sự giao hòa, giao cảm càng muôn phần tăng lên, sắc thu trong sáng, tình thu thanh khiết mơ màng. Bức tranh thu được dệt thêu bằng cái duyên của sự sống và một tình yêu rạo rực, xôn xao. Đúng như nhà văn Hoài Thanh đã nhận xét: “Xuân Diệu say đắm cảnh trời… khi vui, khi buồn đều nồng nàn, da diết…”
Khổ bốn nói về cảnh thu trên một không gian rộng và lạnh. Một áng mây chiều và một cánh cò thân thuộc của đồng quê. Không phải là mây xám. Cũng không phải “Mây trắng nghìn năm bay chơi vơi” (“Lầu Hoàng Hạc” – Thôi Hiệu). Mà là mây biếc, mây tuyệt đẹp. Hai chữ “về đâu” đầy gợi cảm. Hỏi mây hay hỏi nàng thiếu nữ? Cảnh vừa thực vừa mộng, nhiều man mác, bâng khuâng. Câu thơ “Con cò trên ruộng cánh phân vân” là một sáng tạo rất độc đáo của Xuân Diệu. Hình tượng thơ là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa phong vị Đường thi và thơ mới. “Từ con cò của Vương Bột lặng lẽ bay với ráng chiều đến con cò của Xuân Diệu không bay mà cánh phân vân, có sự cách biệt của hơn một ngàn năm và của hai thế giới” (Hoài Thanh). Hình ảnh “cánh phân vân” đặc tả dáng cò đang lững lờ đôi cánh, không biết nên bay cao hay bay thấp, bay gần hay bay xa, bay lên hay đậu xuống…
Chiều thu tàn, bầu trời như trải rộng thêm ra. Cảm nhận ấy được diễn tả qua hai câu thơ tuyệt bút:
“Chim nghe trời rộng giang thêm cánh,
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần”.
Lấy cái hữu hạn, cô đơn, bé nhỏ (cánh chim) để diễn tả cái vô hạn, mênh mông (bầu trời) là một nét vẽ tài hoa. “Chim nghe…” – sự chuyển đổi cảm giác đầy thi vị. Cánh chim nhỏ nhoi, bay miết, in dáng trên nền trời chiều bao la. Hoàng hôn buông xuống, sương thu chớm lạnh. Hoa khép cánh dần…
Thời gian nhẹ nhàng trôi “bước thu êm”. Tâm hồn thi nhân dào dạt tình thương mến. Chan hòa cùng đất trời, tạo vật. Mọi tâm hồn sẽ tự tìm đến với nhau và “thắm lại” (Xuân Hương), cần chi băng nhân? Nhà thơ khe khẽ reo lên: “Lòng anh thôi đã cưới lòng em”. Phải chăng ý câu thơ này: “Anh đã phải lòng em” như có người đã hiểu?
“Thơ duyên” đã tồn tại hơn nửa thế kỉ mà vẫn “duyên” vẫn đẹp. Bởi lẽ cảnh thu tuyệt đẹp, thơ mộng. Tình thu trong sáng, bâng khuâng. Từ chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến đến “Thơ duyên”, hơn bao giờ hết, ta cảm nhận sâu sắc rằng, “Xuân Diệu mới nhất trong các nhà thơ mới”. Chim đã có đôi, có cặp rồi, cho nên “Lòng anh thôi đã cưới lòng em” vậy. Duyên đôi lứa cũng là duvên bạn bầy. “Thơ duyên” là một bài thơ tình của Xuân Diệu. Trong tuyển tập “100 bài thơ tình”, “Thơ duyên” mang vẻ đẹp một “hoa khôi” sáng giá.
Phân tích bài “Thơ Duyên” của Xuân Diệu – Bài làm 4
Xuân Diệu là “ông hoàng thơ tình’ với những vần thơ say đắm, ngọt ngào và mãnh liệt về tình yêu đôi lứa. Mỗi bài thơ đều để lại trong lòng người đọc nhiều xúc cảm và ấn tượng riêng. “Thơ duyên” là bài thơ tràn đầy cảm hứng mê say, tin tưởng và đầy phấn khởi cho những giây phút rung động trong tình yêu.
Ngay ở nhan đề tác phẩm, người đọc đã cảm nhận được nét “duyên” của con chữ và nét duyên ngầm trong lòng người. Cảm xúc bao trùm bài thơ chính là niềm hăng say, vui tươi, phơi phới khi có những giây phút rung động đầu đời của một chàng trai mới biết yêu. Người đọc chắc chắn sẽ mê mẩn với những dòng cảm xúc vừa nhẹ nhàng vừa sôi nổi:
Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Xuân Diệu đã mở đầu bài thơ bằng một không gian thật nên thơ và lãng mạn. Hình như không phải một buổi chiều như một ngày mà là “chiều mộng”. Một buổi chiều lãng mạn, tràn đầy chất thơ, chất nhạc, khiến lòng người say đắm. Một buổi chiều mùa thu nhẹ nhàng, tinh tế có cặp chim đang chuyền nhau trên cành cây mẹ. Một sự hòa quyện, giao thoa thật tuyệt vời giữa thiên nhiên và đất trời. Giọng thơ tuy nhẹ nhàng nhưng tràn đấy hứng khởi.
“Nhánh duyên” trong câu thơ đầu tiên khiến người đọc liên tưởng đến một mối nhân duyên ngầm nào đó nhưng vẫn còn e thẹn, ngượng ngùng.
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền
Hai câu thơ như tan ra cùng đất trời, mùa thu hiện hữu rõ từng đường nét và lắng nhẹ vào lòng người. Màu xanh của bầu trời như đang “đổ” xuống vạn vật, tạo nên một màu “ngọc” thật trong lành và dịu mát. Từ “đổ” khiến cho câu thơ bừng sáng lên. Đó như báo hiệu một mùa thu ngọt ngào, tinh tế đã đến. Dường như trời đất của mùa thu luôn có sức hút mạnh mẽ như vậy.
Một buổi chiều thật nên thơ, đầy tình tứ sẽ thêm thi vị hơn khi có câu chuyện tình đôi lứa:
Con đường nho nhỏ gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang nắng trở chiều
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
Lần đầu rung động nỗi thương yêu
Hoa ra sự vui tươi của đất trời đều xuất phát từ nỗi rung động “lần đầu” ấy. Hình ảnh con đường “nho nhỏ’ trong câu thơ có điểm xuyết những cành lá đâm ngang như phác họa nên một bức tranh thu nhẹ nhàng, tinh tế đến lạ kỳ. Một không gian khiến cho người đọc ngỡ như mình đang lạc vào cảnh tiên thi vị. Dường như cảnh vật đang tạo cảm giác lâng lâng, nhẹ nhõm của người đang tràn ngập tình yêu. Câu thơ chợt bừng lên niềm reo vui thật khẽ nhưng thật sâu. Thơ Xuân Diệu cứ nhẹ nhàng nhưng đằm thắm như duyên con gái vậy.
Ở những vần thơ tiếp theo, nhân vật chính của tình yêu lần đầu ấy xuất hiện thật nhẹ:
Em bước điềm nhiên không vướng chân
Anh đi lững thững chẳng theo gần
Vô tâm – nhưng giữa bài thơ dịu
Anh với em như một cặp vần
Anh chàng thi sĩ đi giữa một con đường mà như có cảm giác đang lạc vào một miền say mê, đắm đuối với tâm thế “lững thững” rất bình tâm, rất nhẹ nhàng và có chút gì đó lưỡng lự. Chàng trai ấy giữ một khoảng cách vừa đủ để cảm nhận được tình yêu đang tan chảy ra cùng mùa thu dịu ngọt, êm ái. Cả “anh” và “em” đều “vô tâm” nhưng dường như ai cũng muốn xích lại gần hơn, gần thêm chút nữa. Bởi ẩn sâu trong suy nghĩ thì câu chuyện tình nhẹ nhàng đó đã như một cặp vần. Những câu thơ nhẹ nhàng, nhịp điệu chậm rãi, khoan thai gieo vào lòng người niềm hân hoan, vui tươi.
Cảnh vật trong bài thơ duyên rất duyên, huyền diệu và tràn đầy vui tươi, làm nền cho tình cảm trở nên lâng lâng:
Ai hay tuy lặng bước thu êm
Tuy chẳng băng nhân gạ tỏ niềm
Trông thấy chiều hôm ngơ ngác vậy
Lòng anh thôi đã cưới lòng em
Mùa thu “êm” như khẽ khàng đi vào trái tim của những kẻ đang yêu, chẳng ai bày tỏ nỗi niềm nhưng lại khiến cho mọi thứ lâng lâng. Buổi chiều mưa thu “ngơ ngác” nhưng nhà thơ đã khẳng định chắc nịch “lòng anh thôi đã cưới lòng em”. Một Xuân Diệu thật duyên, là duyên ngầm, nhưng cũng thật mãnh liệt. Không phải anh cưới em mà là “lòng anh cưới lòng em”.
“Thơ duyên” của Xuân Diệu là bài thơ tràn đầy niềm tin yêu và tràn nhựa sống. Một bài thơ tình nhẹ nhàng, nhưng cũng không kém phần mãnh liệt.
Phân tích bài “Thơ Duyên” của Xuân Diệu – Bài làm 5
Trong bản hợp xướng những bài ca cuộc sống của mình, Xuân Diệu khiến người đọc bất ngờ với “Thơ duyên” bởi nó nhẹ nhàng, dịu dàng thánh thiện mê li. Nhan đề của bài thơ thật ngọt, là “Thơ duyên” chứ chưa hẳn là thơ tình, thơ yêu. “Thơ duyên” đã mang đến một hương vị dịu ngọt, êm ái cho bộ sưu tập những cung bậc, trạng thái cảm xúc khi thưởng thức vần thơ của “Ông hoàng thơ tình Việt” _ Xuân Diệu.
Huy Cận có một nhận xét rất thú vị như sau: “Những người yêu nhau thường hay ra giữa thiên nhiên… đó là một quy luật – vì chỉ có kích thước của vũ trụ họa chăng mới đo được cái không bờ bến của xúc động tình yêu.” Phải chăng mà do đó, chàng thi sĩ Xuân Diệu của chúng ta mới “lần đầu rung động nỗi thương yêu” trong cái khoảng không gian thơ mộng này:
“Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên,
Cây me ríu rít cặp chim chuyền.
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền.”
Thật là hòa hợp biết mấy, cái hài hòa của thiên nhiên trong đoạn mở đầu này được thể hiện qua con mắt nhạy cảm của Xuân Diệu, phải chăng cũng bởi tâm trạng của con người sắp có biến chuyển mới? Trời thì mộng, nhánh thì duyên, mối quan hệ giữa “chiều mộng” và “nhánh duyên” đó là “hòa thơ”. Từ mối quan hệ tuyệt mĩ ấy, cũng như cảm nhận được trời đất đang giao duyên: một buổi chiều mơ mộng, bầu trời như trong xanh và dường như có gió nhẹ mơn man cành lá. Chim chóc cặp đôi “ríu rít” với nhau tạo nên những âm thanh trong trẻo, vui tươi. Màu sắc thì xanh đến tha thiết lòng. Cái “da trời xanh ngắt” của cụ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến đã hóa “xanh ngọc” trong con mắt Xuân Diệu. Cái “xanh ngọc” ta cũng có thể bắt gặp trong bức tranh thôn Vĩ của Hàn Mặc Tử:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.”
(Đây thôn Vĩ Dạ)
Trong khổ thơ này, đường nét, màu sắc, âm thanh hòa quyện cùng lòng người, chợt nhận ra rằng: “Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền.” Tiếng thu ngân lên như “tiếng huyền”, cũng là âm thanh huyền diệu của vũ trụ, của lòng người. Quan niệm thiên nhiên hữu tình được Xuân Diệu nhấn mạnh nhiều lần trong thơ ông:
“Một tối bầu trời đắm sắc mây
Cây tìm nghiêng xuống cánh hoa gầy
Hoa nghiêng xuống cỏ trong khi cỏ
Nghiêng xuống vườn xuân một tối đầy.”
Trong “Đây mùa thu tới”. Xuân Diệu thể hiện cái buồn, sự chán nản của mình, lan tỏa cả thiên nhiên:
“Mây vẩn tầng không chim bay đi
Khí trời u uất hận chia ly
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa của nhìn xa nghĩ ngợi gì.”
Trái ngược hoàn toàn, chiều trong “Thơ duyên” không một chút vẩn đục, u sầu mà ngược lại, rất trẻ trung, hồn nhiên. Cảnh vật say nghiêng ngả với âm thanh ngây ngất của mùa thu:
“Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu,
Lả lả cành hoang nắng trở chiều.”
Cái chữ “nhỏ nhỏ” ấy khiến cho con đường đáng yêu quá, nó làm cho gió sa xuống, “cành hoang” lả lới với “nắng chiều”. Tất cả hiện lên trong sự hoàn mĩ, mờ ảo và nên thơ của trời đất đất, vũ trụ. Con đường, cành lá à cả nắng gió của trời đất đều là những hình ảnh có hồn, có tâm trạng bởi:
“Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn,
Lần đầu rung động mỗi thương yêu.”
Tất cả những sự đáng yêu, nên thơ ở trên là có “lần đầu rung động nỗi thương yêu” kia. Thứ tình cảm nhẹ nhàng “lần đầu tiên” ấy cứ ngân nga trong lòng mỗi chúng ta mãi không thôi.
Nhân vật trung tâm bắt đầu xuất hiện từ một thước phim chầm chậm:
“Em bước điềm nhiên không vướng chân,
Anh đi lững thững chẳng theo gần.
Vô tâm – nhưng giữa bài thơ dịu,
Anh với em như một cặp vần.”
“Anh” với “em”, chúng ta đã dạo bước cùng với nhau trong một buổi chiều ấn tượng tự nhiên như vậy sao? Chúng ta nào có quen biết nhau đâu, nhưng cái sự “duyên” đã để “anh” và “em” được cùng nhau hưởng trọn khung cảnh chiều đáng nhớ này. Em bước khoan thai “điềm nhiên” đâu có để ý đến chàng thi sĩ này đang “lững thững” nối gót bóng hồng. Mới đọc, ta có cảm giác như câu thơ “hơi bị” thừa thải về mặt từ ngữ: đã nói là “điềm nhiên” rồi mà còn thêm “không vướng chân”, “lững thững” thêm “chẳng theo gần”. Ấy vậy, càng đọc càng thấy hai câu thơ này hợp lí. Cái hay của Xuân Diệu là ở chỗ đó, ông muốn nhấn mạnh cái sự hữu duyên mà lại xa cách kia. Ta từng chứng kiến rất nhiều nỗi ám ảnh về xa cách trong thơ Xuân Diệu:
“Có một bận em ngồi xa anh quá
Anh bảo em ngồi xích lại gần hơn
Em xích gần hơn một chút anh hờn
Em ngoan ngoãn xích gần thêm chút nữa”
(Xa cách)
Khao khát được gắn bó của Xuân Diệu như quy luật của cuộc sống, như cái lẽ bình thường của trời đất này vậy Trong không gian và thời gian đặc biệt này, Xuân Diệu đã tuyệt đối hóa để “anh” và “em” dù vô tâm đấy nhưng vẫn như “một cặp vần” giữa “bài thơ dịu” không thể tách rời. Một cặp vần ấy là sự hòa hợp trọn vẹn của cả ngôn từ lẫn âm thanh để tạo nên thơ. Sự hòa hợp giữa hai tâm hồn trong một khung cảnh mĩ miều này cũng nên thơ lắm chứ!
Sự trăn trở trong lòng thi sĩ lan ra đến cảnh vật xung quanh, dường như chúng cũng có cùng tâm trạng với Xuân Diệu vậy.
”Mây biếc về đâu bay gấp gấp,
Con cò trên ruộng cánh phân vân.
Chim nghe trời rộng giang thêm cánh,
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần.”
Những đám mây của Xuân Diệu thật sáng tạo với kiểu “bay gấp gấp”, cánh cò cũng vậy, biết “phân vân”. Mây và chim là những hình ảnh rất quen thuộc trong ca dao dân gian ấy vậy mà khi bay vào thơ Xuân Diệu nó có thần thái mới rất thú vị, rất Tây. Quả là phong cách của nhà thơ “mới nhất trong những nhà thơ Mới”!
Sự tịnh tiến trong tâm hồn thi sĩ hướng tới sự chiêm nghiệm, Xuân Diệu hướng nội với những cảm xúc nồng nàn:
“Ai hay tuy lặng bước thu êm,
Tuy chẳng băng nhân gia tỏ niềm.
Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy,
Lòng anh thôi đã cưới lòng em.”
Sự ngẩn ngơ của “anh” là vì bóng chiều ư? Có lẽ vậy, nhưng chưa hẳn vậy bởi câu thơ kết thật lạ lùng: “Lòng anh thôi đã cưới lòng em.” Từ “thôi” nghĩa là chấp nhận sự thật không thể kháng cự. Đúng vậy “anh” và “em” dẫu rằng chúng ta không hề quen biết nhau, chưa từng nói gì với nhau nhưng dường như chúng ta đã có Duyên tiền định. “Anh” đã nghe thấy tiếng bước chân trong lòng mình, từng bước từng bước, vang lên nỗi khát khao được sánh đôi với em mãi mãi trên con đường đời dài lâu phía trước. Không cần mai mối,không chủ định, lòng anh đã tự phải lòng em mất rồi, bóng hồng kiều diễm, nàng biết chăng nàng?
“Thơ duyên” là lẽ ấy bởi tự cổ chí kim đã có câu:
“Hữu duyên thiên lí năng tương ngộ
Vô duyên đối diện bất tương phùng.”
Thơ Xuân Diệu nói chung đó là tình yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên, nó khiến chúng ta yêu đời và con người muốn trở nên gần nhau hơn. Những rung động nhẹ nhàng và sự quan sát tinh tế của hồn thơ nhạy cảm Xuân Diệu trong “Thơ duyên” đã mang đến cho đời những vui tươi, mới mẻ êm ái. Xin được một lần cảm ơn Xuân Diệu, đã đem cái đẹp góp phần cho đời thêm xanh.
Phân tích bài “Thơ Duyên” của Xuân Diệu – Bài làm 6
Trong phong trào thơ mới ta không những được thoát lên tiên với Thế Lữ, điên cuồng với Hàn Mạc Tử, phiêu liêu với trường tình của Lưu Trọng Lư mà ta còn được say đắm trong thơ Xuân Diệu nữa. Nhà thơ ấy yêu đời đến cuống quýt cuồng nhiệt, chính vì thế mà những tác phẩm thơ của ông thường mang đến tình yêu, mùa xuân và tuổi trẻ. Đặc biệt trong những bài thơ ấy ta ấn tượng với bài thơ duyên. Ấn tượng đến nỗi mà càng đọc càng thấy cái hay và cái đẹp của bài thơ.
Không giống với bài thơ đây mùa thu tới mà với bài thơ thu này người ta chỉ cảm nhận được cái nhẹ nhàng dịu dàng của thu chứ không hề mang một nỗi buồn phảng phất nào cả. Cái hay cái đẹp có thể cũng thể hiện rất rõ trong chính nhan đề của tác phẩm. Duyên kia chứ không phải là tình. Nhà thơ không nói là thơ tình mà lại là duyên. Duyên là cái để hai người gặp nhau yêu nhau thương nhau. Duyên là sự ngẫu nhiên mà dẫn đến sự gắn bó trong tình cảm. Thơ duyên chứ không phải thơ tình bởi nhà thơ không đơn thuần nói về tình yêu đôi lứa mà cái duyên ở đây còn mang nghĩa rộng hơn. Đó là cái duyên của thiên nhiên với thiên nhiên. Của thiên nhiên với con người, duyên của con người với con người. Trong bài thơ này cảm hứng của tác giả có thể là bắt nguồn từ tình yêu nhưng nó chỉ là điểm nhìn để từ đó phát hiện ra bao mối tơ duyên hòa hợp, phát hiện ra thế giới của hòa điệu và giao cảm. Đó là sự hòa điệu của thiên nhiên và sự hòa điệu của con người.
Cái hay và cái đẹp trong bài thơ được thể hiện trước hết ở khổ thơ thứ nhất. Trong khổ thơ này ta cảm nhận được cảnh mùa thu tươi tắn:
“Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên.
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến nơi nơi động tiếng huyền. ”
Cái hay, cái đẹp chính là cái duyên của thiên nhiên ở đây. Buổi chiều ấy hòa thơ trên những nhánh cây duyên kia. Phải chăng xuất phát từ điểm nhìn của tình yêu đối lứa cho nên thiên nhiên nơi đây cũng mang một cái duyên nào đó. Chắc phải là duyên tình. Chính những nét ấy đã làm nên cái thơ mộng trữ tình của thiên nhiên cảnh vật nơi đây. Cây me thì ríu rít những cặp chim chuyền cành. Đến chim kia cũng có đôi có cặp. Và hình như nhà thơ đang cảm thấy những con chim ấy chính là kết quả của chữ duyên kia. Chính duyên số đã đưa chúng lại gần nhau hơn và làm đẹp hơn cái duyên của thiên nhiên mùa thu ấy. màu trời kia như ai đổ lên những màu xanh ngọc qua muôn lá. Mùa thu đến nơi nơi trong tiếng huyền. Mỗi mùa có một tiếng tiêng, nếu mùa xuân thì thầm hoa lá, nếu màu hạ tưng bừng với những âm thanh rộn rã của tiếng ve, nếu mùa đông có tiếng gió rít lạnh lẽo thì mùa thu chọn cho mình âm thanh của tiếng lá rơi xào xạc huyền ảo êm tai. Đó phải chăng là tiếng nhạc, tiếng đàn du dương như ru người ta vào những mộng mị. Chính những điều đó là cảnh đẹp của thiên nhiên, còn cái hay lại chính là cái duyên của trời đất.
Như vậy ngay chính trong khổ thơ đầu thì cái đẹp cái hay của thơ duyên, của duyên thiên nhiên đã hiện ra trước mắt chúng ta. Cái màu sắc, âm thanh, hình ảnh của mùa thu ấy êm đềm dịu ngọt quá khiến cho những chúng ta như được bước vào một cõi tiên thơ mộng. Nhưng vô cùng ngạc nhiên rằng chính cái tiên cảnh ấy lại là những cái quá đỗi thân quen nơi trần gian này. Và chính qua sự cảm nhận rất thơ cua Xuân Diệu thì điều đó trở nên thật tuyệt vời. Đồng thời qua đây ta cũng không cảm thấy cái buồn của mùa thu ta chỉ thấy cái hay cái đẹp của nó mà thôi.
Nếu như khổ hai thiên nhiên như cây, gió, cặp chim chuyên hòa hợp với nhau làm nên cái duyên của đất trời thì đến khổ thơ thứ hai này cảnh như xui khiến con người “bạn” và “ta” để ý đến nhau:
“Con đường nho nhỏ, gió xiêu xiêu,
Lả lả cành hoang nắng trở chiều.
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn.
Lần đầu rung động nỗi thương yêu”
Con đường hiện lên với dáng hình nho nhỏ, gió chiều thì xiêu xiêu. Cái gió ấy không phải là gió thoang thoảng nhẹ nhàng hay phấp phới mà lá cái gió xiêu xiêu. Từ láy ấy như thể hiện được cái đặc biệt của cơn gió mùa thu. Cái sự se lạnh của nó khiến cho con người ta cảm thấy nhẹ nhàng thanh thoát hết cả tâm hồn. Cành cây nào đó lả lả nắng thì trở chiều. Từng câu thơ của Xuân Diệu như thể hiện được hết cái hay cái đẹp của thiên nhiên con người. Không những thế cái hay cái đẹp còn được thể hiện trong chính những câu thơ của Xuân Diệu. Chính cái không gian cảnh vật tuyệt vời ấy đã làm nền cho “ta” để ý đến “ bạn”. và bỗng nỗi rung động bỗng lại ùa vào những yêu thương. Cái hay cái đẹp của thiên nhiên cũng như tình cảm con người ấy đã khiến cho nhà phê bình Hoài Thanh phải cất lên những nhận lời nhận xét. Chính vì lời nhận xét ấy thì có nhiều người đã cho rằng :Nếu thơ duyên không dành được một chốc trong sách giáo khoa, nếu thơ duyên không được ngòi bút tài hoa của Hoài Thanh bình luận chắc ít ai ngó ngàng đến thi phẩm của Xuân Diệu. Tuy nhiên thì sự thật thì có thêm lời bình của Hoài Thanh người ta thêm yêu nó hơn mà thôi. Ở đây ta có thể hiểu rằng con đường nhỏ kia chính là con đường của tình yêu, con đường ấy như đang say cơn gió kia mà chúi đầu vào nũng nịu. Cành hoang thì cũng như có tình ý gì với nắng chiều mà lả lơi tình tứ.
Và khi đến với khổ thơ tiếp theo chúng ta như cảm nhận được một tình yêu đôi lứa có những chàng trai cô gái ấy:
“Em bước điềm nhiên không vướng chân,
Anh đi lững thững chẳng theo gần,
Vô tâm – nhưng giữa bài thơ dịu,
Anh với em như một cặp vần. ”
Trước sự giao hòa của thiên của con người thì lại xuất hiện hình ảnh anh và em nhưng lạ ở chỗ lại có khoảng cách bước xa nhau. Tất cả mọi sự vật của mùa thu hiện lên thật gần gũi thế nhưng sao ở đây lại có khoảng cách. Em thi bước điềm nhiên, đó là trạng thái nhẹ nhàng, không một chút bận lòng nào. Còn nhân vật anh thì lại đi lững thững thơ thẩn. Như kiểu cả hai người đi mà chẳng để ý người còn lại. Mặc dù bề ngoài họ vô tâm thế nhưng cái duyên không nằm ở khoảng cách ấy. Bởi họ đang đi trong một khu vườn tình ái vì thế cho nên họ giống như những cặp vần đứng sát lại gần nhau. Thiên nhiên giống như một khúc nhạc đệm làm nên bản tình ca đắm say cho con người. Chính vì thế mà những người trẻ tuổi thương yêu nhau từ cái vô tâm cho đến cái hữu tình. Nói là một cặp vần nhưng chúng ta như biết được rằng đó chính là một cặp tình nhân yêu đương. Đó chẳng phải là cái hay cái đẹp hay sao?
Hình ảnh thiên nhiên đẹp lại hiện lên những cánh cò, áng mây, loài chim nào đó:
“Mây biếc về đâu bay gấp gấp,
Con cò trên ruộng cánh phân vân,
Chim nghe trời rộng dang thêm cánh,
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần. ”
Thiên nhiên màu thu không còn buồn thiu nhẹ nhàng mà nó trở nên gấp gáp. Dường như Xuân Diệu lúc nào cũng gấp gáp vì thế cho nên mùa thu vốn nhẹ nhàng mà cũng phải gấp gáp theo nhà thơ. Mây bay đi gấp gáp, con cò trên đồng ruộng ấy thì phân vân. Cò như được nhân hóa, nó phân vân điều gì?. Chim trên khoảng không ấy dang rộng đôi cánh mà bay. Hoa thì lạnh chiều thưa sương bắt đầu xuống. Qua những hình ảnh ấy ta dường như cảm nhận được buổi chiều thu đang dần chuyển sang tối. Những thiên nhiên cảnh vật như được nhân hóa có tâm trạng, biết phân vân, gấp gáp bay đi.
Đến với khổ thơ cuối cùng thì con người lại hiện lên với những tình cảm tốt đẹp:
“Ai hay tuy lặng bước thu êm,
Tuy chẳng băng nhân gạ tỏ niềm
Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy
Lòng anh thôi đã cưới lòng em. ”
Bước thu êm là sự cảm nhận tinh tế của cảnh thu và tình thu. Nó tuy tĩnh lặng nhưng lại không có sức cảm hóa vạn vật xung quanh. Cái êm ấy làm cho tình cứ đến mà không cần phải gạ gẫm gì. Chiều hôm ấy ngẩn ngơ trong cảnh đẹp hay chính là lòng người đang ngẩn ngơ. Phải chẳng cảnh và con người đang xúc động và đang một thoáng mộng tưởng mơ hồ xa xôi. Đặc biệt là câu thơ cuối rất hay bởi ở đây có sự “cưới lòng”. Cái này chưa ai từng nghe thấy thé mà ở đây Xuân Diệu lại nói như thế. Hai chữ ấy như thể hiện được cái đính hôn tình cảm bí mật không cho người kia biết. Trong lòng thì đã thích nhưng mặt ngoài vẫn còn e thẹn.
Như vậy qua bài thơ ta không chỉ thấy cái hay cái đẹp trong những câu từ ngôn chữ hay nghệ thuật thơ ca của Xuân Diệu mà ta còn cảm nhận được cái cảnh và cái tình trong đó. Cảnh thu vốn rất buồn thế nhưng ở đây thì lại không hề buồn. Nó cứ mang cái sự nhẹ nhàng dịu ngọt ấy đến cho mỗi người cảm nhận. Và tình cảm con người cũng như được phát triển trong chính cảnh thu ấy.