Truyện kí Nguyễn ái Quốc được viết “như một ngòi bút phương Tây sắc sảo, rất điêu luyện, rất Pháp”(Phạm Huy Thông). Vi hành là một truyện ngắn hội tụ đầy đủ những đặc sắc nghệ thuật đó của ngòi bút truyện kí Nguyễn ái Quốc
Phân tích những đặc sắc nghệ thuật của ngòi bút Nguyễn ái Quốc thể hiện ở truyện ngắn Vi hành
BÀI LÀM
Truyện kí Nguyễn ái Quốc được viết “như một ngòi bút phương Tây sắc sảo, rất điêu luyện, rất Pháp”(Phạm Huy Thông). Vi hành là một truyện ngắn hội tụ đầy đủ những đặc sắc nghệ thuật đó của ngòi bút truyện kí Nguyễn ái Quốc. Vi hành là một trong những truyện ngắn hay nhất của Nguyền ái Qụốc ra đời vào những năm hai mươi của thế kỉ XX. Tác phẩm được viết bằng tiếng Pháp, đăng trên báo Nhân đạo, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Pháp, số ra ngày 19 tháng 12 năm 1923.
Sau đại chiến thế giới thứ nhất (1914 -1918), tuy thắng trận nhưng nền kinh tế kiệt quệ lại phải lo đối phó với phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, thực dân Pháp một mặt tăng cường vơ vét thuộc địa, mặt khác không ngừng tuyên truyền, lừa bịp về “sự thịnh vượng”và “tình hình ổn định” của những nước chúng đang “khai hóa”, “bảo hộ”. Chúng bày ra cái gọi là “đấu xảo thuộc địa”(Mác-xây năm 1922) và đưa Khải Định sang dự với tư cách là quốc vương An Nam. Khải Định sang Pháp là để tỏ thái độ hoàn toàn quy phục “mẫu quốc” và cảm tạ ơn “khai hóa”, qua đó ngầm nói với nhân dân Pháp rằng: Tinh hình Đông Dương rất ổn định và tốt đẹp. Cuộc Pháp du của Khải Định thực chất là một trò quảng cáo cho chủ nghĩa thực dân. Việc Khải Định sang Pháp đã bị những người Việt Nam yêu nước lên án mạnh mẽ. Cùng với Con rồng tre (kịch), sở thích đặc biệt (tiểu phẩm), Lời than vãn của bà Trưng Trắc (truyện ngắn),… Nguyễn ái Quốc viết Vi hành để lật tẩy con bài chính trị Khải Định cùa thực dân Pháp và tính chất bù nhìn tay sai dơ dáy của Khải Định, luôn thể tố cáo tính chất điêu trá của những cái gọi là “văn minh”, “khai hóa” mà thực dân Pháp đang rêu rao.
Vi hành trước hết nhằm vào độc giả người Pháp, vào dân Pa-ri. Vi thế tác phẩm phải viết có nghệ thuật, phải sử dụng bút pháp của truyện ngắn châu Âu hiện đại. Hơn nữa, để có sức thuyết phục cao với người Pháp, tác giả phải giữ thái độ khách quan, tránh lối thảa mạ trực tiếp bằng những “lời lẽ đao to búa lớn”
Mục đích là tố cáo lật tẩy nên tinh thần và linh hồn tác phẩm là châm biếm, đả kích. Tinh thần này thấm vào toàn bộ từ giọng diệu đến mọi tình tiết và biến hóa thành nhiều dạng khác nhau để có thổ “đánh” từ nhiều phía, bằng nhiều cách.
Tên tác phẩm nguyên văn tiếng Pháp là Incognito (dùng tên giả không để bất cứ một ai biết được). Người Pháp dùng incognito vói nghĩa bình thường. Nguyễn ái Quốc dùng với rất nhiều dụng ý vừa thật vừa giả, vừa nghiêm chỉnh vừa đùa cợt, vừa đả kích vừa châm biếm. Cái biến ảo hư hư thực thực rất phù hợp với tình huống truyện. Dịch gả Phạm Huy Thông đã tỏ ra rất hiểu dụng ý nghệ thuật của tác giả khi chọn dịch nhan đề tác phẩm là Vi hành. Vi hành vốn là việc làm tốt cùa vua chúa khi cài trang làm dân thường đi tìm hiểu đời sống của muôn dân. Khải Định sang tận Pháp để “vi hành” xem dân An Nam sống thế nào dưới’sự trị vì của ngài thì quả là xưa nay-chưa từng có, quả thật là nực cười.
Lời chú thích bên dưới nhan đề: “Trích Những bức thư gửi cô em họ do tác giả tự dịch từ tiếng An Nam” tuy chỉ có một dòng ngắn ngủi thôi nhưng lại vô cùng quan trọng. Đây là một thủ pháp nghệ thuật độc đáo để gây sự hấp dẫn, khêu gợi tính hiếu kì của độc giả khi mà cái kho giải trí của Pa-ri đang có nguy cơ cạn kiệt. Anh em họ ở đãy có thể-yêu nhau, lấy nhau. Vì thế mà dòng chú thích như ngòm hứa hẹn với độc giả những lời lẽ yêu đương mùi mẫn, những chuyện tình riêng tư kín đáo. Độc giả không thể dừng lại giở chừng, tò mò theo dõi hết cầu chuyện mới biết mình đã bị lừa một cách hết sức ngoạn mục, bị lừa nhưng lại hết sức khâm phục kẻ đã lừa mình vì đó là cú lừa của một trí tuệ tác việt và một ngòi bút đầy bản lĩnh.
Nguyễn ái Quốc là một thần dân An Nam. Dù Khải Định có thế nào đi nữa thì , cũng không thể trực tiếp phê phán bởi lẽ truyền thống người Việt Nam không chấp nhận được điều đó. Tác giả mượn lời một đôi trai gái người Pháp chuyện trò để qua đó hình tượng nhân Vật chính hiện lên khá rõ và dụng ý phê phán, châm biếm cũng vì thế mà bộc lộ không giấu giếm. Sư sáng tạo này đem đến cho tác phẩm tính khách quan và nhờ tính khách quan này mà hiệu quả phê phán càng độc đáo, sâu sắc. Đế thể hiện rõ thái độ phệ phán, nhà văn đã sử dụng một thủ pháp quen thuộc: Tạo tình huống nhầm lẫn. Đôi trai gái người Pháp nhầm lẫn tác giả với ông vua An Nam – một sự nhầm lẫn vô tình của nhân vật nhưng lại có ý của tác giả. Việc nhầm lẫn là việc vẫn thường xuyên xảy ra trong cuộc sống. Tác giả (nhân vật lõi) thuật lại câu chuyện nhầm lẫn vô tình mà thú vị ấy một cách khách quan vì biếl được họ nói gì nhưng họ lại cứ tưởng “ông ta” không biết gì nên nói rất thoải mái. Một mục đích chính trị lớn lao, lại được lồng vào một hư cấu nghệ thuật đơn giản đến lạ lùng, hư cấu mà cứ như không hề hư cấu bởi tính chân thực đến kinh ngạc của những điều “mắt thấy tai nghe”. Chí mội khoảnh khắc ngắn ngủi trên tọa xe điện ngầm, vẻn vẹn có ba nhân vật trong đó “tôi” chỉ lẳng lặng ngồi nghe vẻ nghĩ ngợi còn cặp tình nhân ríu rít quanh một câu chuyện rất “xôm” nhưng cũng hết sức hãng quơ, phù phiếm. Với họ là chuyện phiếm, chuyện vùi, chuyện hài. Với “tôi” là chuyện nghiêm chinh, chuyện buồn, chuyện đau lòng.
Sự nhầm lẫn là cơ hội để tác giả gián tiếp khắc họa chân dung Khái Định ở nhiều góc độ, nhiều phương diện khác nhau. Nhân vật thật, nhân vật chính không cần xuất hiện mà vẫn thấy rõ chân dung một cách sinh động và đầy ấn tượng. Đó là một bức chân dung hết sức lố bịch được hiện lên với những nét vệ nguệch ngoặc, phóng túng của những lời đàm tiếu giàu tưởng tượng. Một chân dung hiếm họa thú vị đã được lố bịch hóa dưới cái nhìn hài hước của người dân Pa-ri lố bịch từ cách ăn mặc váy không ra váy, quần chẳng ra quẩn đến cách trang sức đầy những vòng, những nhẫn. Trên đầu lại đội cái “chụp đầu”. Khuôn mặt vàng bùng “như vỏ chanh”, mũi tẹt, mắt xếch, Trang phục của Khải Định trong thực tê vốn đã hài hước, trong con mắt của người Pháp, nó lại lố bịch và kì quặc. Qua ngôn ngữ của đôi trai gái Pa ri, người đọc hiểu đó là một kiểu ăn chơi bừa bãi. Đã thế Khải Định mũ áo cân đai xênh xang là thế bỗng chốc hỏa trò hể. Khải Định đã bị lố bịch họa đến cả nhân cách và giá trị. Giữa chốn văn minh, Khải Định tự phơi mình như một thứ đồ cổ, tệ hơn, một trò cười rẻ tiền, một con rối chỉ có giá trị giải trí không lớn. Lời bình của đôi trai gái Pháp về ông vua của một nưóc thuộc địa là những lời nói công khai mang màu sắc tự đo dân chù. Với họ, vua chúa không phải là hạng phải kính trọng. Mọi chí xem vua chúạ như một thứ đồ chơi nhằm thay đổi không khí đã quá nhàm chán trong đời sống của người dân Pa-ri.
Đòn châm biếm cùa tác giả nhẹ nhàng mà thâm thúy. Với hàng loạt những liên tưởng, so sánh, tác giả đã kết thành một trận đòn bút chua cay. Khải Định đến Pháp giữa lúc kho giải trí của người dân Pa-ri cơ hổ đã cạn. Vì thế, y trở thành một thứ hàng sống ngổ ngộ. Nhưng trò hề Khải Định còn rẻ hơn cái trò nhào lộn, leo trèo. Hoàng đế trở thành kiểu nhân vật trò chơi trong luật chơi vừa nghiêt ngã, vừa phóng túng của thể trào phúng. Ngòi bút châm biếm của Nguyễn ái Quốc thật lợi hại, “điểm nhẹ mà trúng huyệt”.
Tác giả mơ rộng, sự nhầm lẫn để tăng tính kì thú cho câu chuyện. Từ việc một đôi trai gái Pháp nhầm tác giả (tôi) với Khải Định đến việc dân chúng Pháp nhầm tác già cùng tình ca những người da vàng trên đất Pháp là Khải Định. Rồi đến cả chính phủ, những kẻ đích danh mời Khái Định làm “thượng khách” cũng không nhận ra nên để tránh thất thế trong ngoại giao bèn đổi xử với những người Việt Nam yêu nước như đối xư với vị hoàng đế An Nam, là cá đều được -hộ giá tuốt”. Chắc chắn thực tê ít ai tin có sự nhầm lẫn kì lạ đó. Nhưng như thể mới là nghệ thuật. Chuyện đúng là bịa, là đùa cho vui nhưng người đọc lại thây như thật một trăm phần trâm. Sư thật là vua Khái Định sang Pháp di lén lút làm bao chuyện ám muội. Khải Định không “vi hành” kiểu đó thì làm gì có‘sự nhầm lẫn kiểu đó. Câu chuyện cứ như một ngày hội giá trang, thực mà hư, ào mà như thực, không có Khai Định trong tác phẩm mà Khải Định vẫn cứ hiện ra rõ mồn một. Chính sự biến ảo đó đã tạo cho câu chuyện có nhiều tầng nghĩa. Thật là một mũi tên trúng nhiều đích.
Để tăng tính hiệu quả cho giá trị phê phán, tố cáo, nhà văn đã chọn thủ pháp viết thư Như đã nói, thư gửi cô em họ dễ làm người dọc nhầm tướng là thư tình nên từ sự tò mò mà sẽ theo dõi kĩ lưỡng. Tuy nhiên, đó chi là tác dụng phụ. Việc sử dụng thủ pháp viết thư đã đem đến một hiệu quả thẩm mĩ cao hơn.
Thứ nhất, bằng lối viết, thư, giọng điệu tác phẩm có thế thủy đổi một cách linh hoạt: Từ lối trần thuật khách quan có thể chuyển sang giọng trữ tình thân mật, rồi có thể liên hệ,so sánh, hồi tưởng quá khứ hoậc vẽ ra tương lai,… Có lúc đang từ giọng văn mỉa mai châm biếm, tác giả có giọng chua xót, đặc biệt là cái chua xót của một ngứời dân mất nước. ‘ • –
Thứ hai, lối viết thư khiến người kể chuyện tha hồ chuyển cành, chuyển đề tài. Đang từ cánh trong xe điện ngẩm ờ Pa-ri chuyển tới cánh quê nhà thời thơ ấu. rồi liên tưởng sân tận Trung Quốc để nói chuyện cải trang vi hành của vua Nghiêu, vua Thuấn, trờ về Pháp để nói chuyện vua Pi e,…
Lối viết thư còn cho phép tác giá tha hổ bộc lộ thái độ chù quan với hàng loại những giả định, đánh giá. Với giọng chủ quan ấy, người đọc cảm nhận rất rõ thái độ của người viết đối với các sự việc đang kế.
Một thủ pháp đáng lưu ý của Vỉ hành là gợi nhiều hơn tả. Các chi tiết chú yếu mang tính gián tiếp, mục đích là để người đọc hình dung, tưởng tượng, suy đoán, phát hiện những cái trái ngược trong cùng một hiện tượng: Ông vua cao quý thực chất chỉ là một con rối; chính sách “báo hộ”. nghe ra thì có vẻ nhân đạo nhưng thực chất là bất nhân, tàn bạo. Bút pháp gợi tạo khoáng trống trí tuệ để người đọc suy ngẫm tìm hàm ý, giái mã những hàm ngôn. Vì thế tiếng cười trong Vi hành không giòn giã ngay trên bệ mãt mà thâm trầm ở bề sâu. Đó là tiếng cười của trí tuệ sắc sảo. Tiếng cười mang đến nhiều sắc điệu thẩm mĩ: Có sự khinh khi kẻ thù của người cách mạng lẫn nổi đau cùa người dân mất nước; có chất thâm thúy cùa nụ cười á Đông và chất trẻ trung của thanh niên phương Tây; có sự kế thừa cả Nguyễn Khuyến, Tú Xương và sự phát triển trong tiếng cười khỏe khoắn, lạc quan của người cộng sản.
Với một truyện ngắn vừa phải, mục đích của tác giả là tố cáo ông vua thuộc địa hèn hạ đồng thời vạch mặt chủ nghĩa thực dân. Cả hai mục đích đã đạt được một cách mĩ mãn nhờ tài năng vãn chương độc đáo “như một ngòi bút phương Tây sắc sảo, rất điêu luyện, rất Pháp” nhưng không mất đi bản sắc của một ngòi bút Việt Nam giàu lòng yêu nước. “Vi Hành là một kết tinh nghệ thuật thuộc loại xuất sắc nhất thể hiện sự kết hợp giữa chính trị và văn chương trong sự nghiệp của Bác Hồ” (Nguyễn Đinh Chú).
loigiaihay.com