Về bài thơ Mộ (Chiều tối) của Hồ Chí Minh – Ngữ Văn 12

Cánh chim mỏi mệt (“quyện điểu”) đang đập cánh bay đi tìm chốn ngủ. Cùng với cánh chim này là chòm mây lẻ loi, lững lờ, chậm chạp trôi.

Dàn Bài

   1. Hai câu thơ đầu là bức tranh thiên nhiên núi rừng lúc chiều tà

   – Cánh chim mỏi mệt (“quyện điểu”) đang đập cánh bay đi tìm chốn ngủ. Cùng với cánh chim này là chòm mây lẻ loi, lững lờ, chậm chạp trôi (“cô vân”, “mạn mạn”). Cả cánh chim và chòm mây đều mang cảm giác mệt mỏi, cô độc

   – Người tù thi sĩ có sự tương đồng, hoà hợp và cảm thông giữa tâm hồn người tù với những hình ảnh của thiên nhiên. Hẳn là người tù cũng đang mỏi mệt và khao khát một chốn dừng chân.

   – Thời gian chiều tà, không gian rừng núi, lại trong hoàn cảnh đang bị giải trên đường chuyển lao, người tù không tránh khỏi cảm giác bùi ngùi, cô đơn, chạnh lòng.

   2. Hai câu cuối là khung cảnh sinh hoạt của con người

   Hình ảnh xóm núi tiếp đó là hình ảnh cô gái xay ngô, và ngay sau đó là ảnh bếp lửa hồng. Sự xuất hiện theo trình tự này cho ta hình dung bước chân của người tù đang tiến đến gần, cái nhìn ngày càng rõ rệt, cụ thể trong từng chi tiết. Vậy là từ không gian trên cao ở hai câu trên, xuống không gian trần thế, không gian sinh hoạt của con người.

   – Bức tranh về sự sống sinh hoạt của con người được đặc tả: Lúc này trời đã tối dần. Vòng quay của cối xay được thể hiện trong sự lặp lại “ma bao túc” trên và “bao túc ma hoàn” trong câu tiếp theo. Cuối cùng là lò than bỗng rực hồng lên khi trời tối hẳn.

   Chữ “hồng” làm bừng sáng cảnh thơ. Nó mang nhiều ý nghĩa. Nó biểu thị thời điểm trời tối hẳn. Nó cũng gợi cái ấm áp, tươi vui, niềm tin…

   Có thể thấy có sự vận động của hình tượng thơ: Từ bóng tối vươn ra ánh sáng , từ sự tàn lụi đến sự sống, từ cô đơn tới xum họp ấm áp; từ nỗi buồn hướng tới niềm vui; trong đó con người thành trung tâm điểm. Đó chính là sự kết hợp hài hoà giữa bút pháp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Chiều tối nói riêng và Nhật kí trong tù nói chung.

   3. Người tù chiến sĩ và thi sĩ

 Tấm lòng hoà hợp, cảm thông, nâng niu của Bác đối với thiên nhiên tạo vật, trước cuộc sống bình thường, nghèo khổ nhưng bình yên của người lao động. Trong thẳm sâu tâm hồn người tù ấy không giấu nổi khao khát về một chốn dừng chân, về một tổ ấm gia đình. Trái tim của nhà cách mạng vẫn đập theo nhịp của con người bình thường, với những khao khát bình thường của con người. Chính vì thế ta càng thấy thương Bác hơn.

   Chế độ lao tù tàn bạo Tưởng Giới Thạch không thể làm cằn khô tâm hồn dào dạt chất nhân văn của Bác. Ngay cả những lúc đang bị đoạ đày, Bác vẫn cảm thông với tạo vật và con người, rung cảm trước hiện thực. Đó cũng chính là biểu hiện của một chất thép trong tâm hồn nghệ sĩ của Bác.

Hoctotnguvan.vn

Bài liên quan

Tìm hiểu về bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Tìm hiểu về bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm – Bài làm 1 Loading……
So sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều

So sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều

So sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều trong đoạn trích Chị em…
Phân tích tâm trạng nhân vật trữ tình trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu

Phân tích tâm trạng nhân vật trữ tình trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu

Phân tích tâm trạng nhân vật trữ tình trong bài thơ Vội vàng của Xuân…
Phân tích hai khổ thơ cuối bài Tràng Giang của Huy Cận

Phân tích hai khổ thơ cuối bài Tràng Giang của Huy Cận

Phân tích hai khổ thơ cuối bài Tràng Giang của Huy Cận – Bài làm…

Bình luận

Địa chỉ email của bạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *