Phân tích màu sắc dân tộc trong bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính

Phân tích màu sắc dân tộc trong bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính

Hướng dẫn

Phân tích màu sắc dân tộc trong bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính

Nếu như Xuân Diệu tiếp thu những cái hay của nền văn học phương Tây hiện đại thì Nguyễn Bính lại trở về với những hơi thở của chốn đồng quê, của những cái gì gọi là truyền thống.Đặc biệt là ông mang cái truyền thống ấy vào trong sáng tác của mình, tiêu biểu đó là bài thơ Tương Tư của Nguyễn Bính,đó là bài thơ mang đậm hồn quê dân tộc.

Bài thơ là lời giãi bày về nỗi nhớ mong của chàng trai thôn quê một cách chân thực. Chúng ta có thể nói tương tư là dành cho những người yêu thương nhau nhưng phải xa cách nhau khiến cho nỗi nhớ nhung cứ thế mà trào dâng mãnh liệt. Tâm trạng tương tư luôn mang một màu sắc đầy tính dân tộc sâu sắc.

Trước hết màu sắc dân tộc được thể hiện trong hoàn cảnh, khung cảnh tương tư. Đến cái tương tư ấy cũng mang đầy màu sắc của dân tộc:

“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông

Một người chín nhớ mười mong một người

Gió mưa là bệnh của giời

Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”

Màu sắc của dân tộc được hiện lên ở đây chính là hình ảnh về Thôn Đoài và Thôn Đông. Hình ảnh này biểu tượng cho những chốn làng quê mộc mạc giản dị mà nên thơ. Có thể nói rằng tình yêu của đôi trai gái ấy không diễn ra trên những cảnh trang hoàng của phố xá đông đúc mà là nơi bình yên của làng quê mộc mạc.

Nguyễn Bính luôn giữ một thái độ kính cẩn và những từ ngữ xưng hô mang đậm chất ca dao chốn thanh bình “tôi” và”nàng”.Câu thơ “ một người chín nhớ mười mong một người” khiến chúng ta nhớ đến câu ca dao “chín nhớ mười thương”. Nhà thơ đã vận dụng rất sáng tạo và linh hoạt qua những câu ca dao ấy. Qua đó nó còn thể hiện nỗi nhớ thiết tha của người con trai dành cho người con gái. Không dừng lại ở đây, tác giả tiếp tục thể hiện nỗi nhớ đó qua việc ví von về bệnh nắng mưa, đó là bệnh của trời, và tương tư là bệnh của mỗi con người. Đó chính là một quy luật tự nhiên, tác giả rất khéo léo trong việc lấy cái tự nhiên để chỉ cho tình yêu. Điều đó thể hiện sự tất yếu khi con người ta yêu nhau.

Qua đó ta cũng có thể thấy được những màu sắc dân tộc được nhà thơ thể hiện hết sức triệt để:

“Hai thôn chung lại một làng

Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?

Ngày qua ngày lại qua ngày

Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng

Bảo rằng cách trở đò giang

Không sang là chẳng đường sang đã đành

Nhưng đây cách một đầu đình

Có xa xôi mấy cho tình xa xôi?

Tương tư thức mấy đêm rồi

Biết cho ai, hỏi ai người biết cho?

Bao giờ bến mới gặp đò

Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau?”

Hình ảnh về những xóm làng cổ xưa như đang hiện lên trước mắt chúng ta, nó càng thấm thía vào chúng ta về màu sắc dân tộc. Gọi là hai thôn nhưng cơ sao không về chung một làng như một lời trách móc nhẹ nhàng tới người mà mình đang thương nhớ, qua đấy ta thấy được nó phảng phất hương vị của những câu ca dao,yêu thương thương tương tư là vậy nhưng không thể lộ liễu công khai được. Điệp ngữ “qua ngày” càng làm tăng lên sự nhớ nhung của người con trai đối với người con gái.

Hình ảnh mang đậm những nét đẹp của chốn làng quê. Nét đẹp đó là mái đình, của những chuyến đò chở khách qua sông. Bến nước con đò không chỉ là hình ảnh mang đầy màu sắc của dân tộc mà nó trở thành biểu tượng cho tình yêu

Hình ảnh cái đình làng kia gợi lên cho chúng ta biết bao nhiêu là vẻ đẹp của những cảnh làng quê dân tộc, ở đó không chỉ là không gian cho những sinh hoạt hằng ngày mà đó còn là nơi cho trai gái như sự nhớ nhung của chàng trai “hỏi ai người biết cho”. Và chính từ những nỗi nhớ đó của mình mà chàng khát khao được gặp nàng.Ở đây tác giả đã khéo léo trong cách vận dụng lối nói ước lệ ẩn dụ của ca dao xưa ( bến- đò, hoa khuê các- bướm giang hồ).

Đến với những câu thơ cuối cùng chàng trai tiếp tục thể hiện tâm trạng và ước muốn của mình,qua đó chúng ta có thể thấy được những hình ảnh mang đậm tính dân tộc:

“Nhà em có một giàn giầu

Nhà anh có một hàng cau liên phòng

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông

Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”

Hình ảnh trầu cau hiện lên với sự đơn độc, lẻ loi của cả hai bên, đồng thời còn thể hiện được cả ước nguyện cùng nên duyên tạo nên một đám cưới làng quê đằm thắm.

Không chỉ ở nội dung mà đến cả nghệ thuật trong thơ của Nguyễn Bính cũng mang tới cho người độc một màu sắc dân tộc không thể nào quên. Với thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc, nó còn mang lại cho hồn thơ của Nguyễn Bính thật sâu sắc. Qua đó chúng ta có thể thấy được màu sắc dân tộc trong thơ Nguyễn Bính nó giàu đẹp như thế nào.

Bài liên quan

Bài viết số 3 lớp 12 đề 1: Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc – Tố Hữu

Bài viết số 3 lớp 12 đề 1: Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc – Tố Hữu

Bài viết số 3 lớp 12 đề 1: Tính dân tộc trong bài thơ Việt…
Giải bài tập Ngữ văn lớp 12: Kiểm tra tổng hợp cuối học kỳ 1

Giải bài tập Ngữ văn lớp 12: Kiểm tra tổng hợp cuối học kỳ 1

Giải bài tập Ngữ văn lớp 12: Kiểm tra tổng hợp cuối học kỳ 1…

Bình luận

Địa chỉ email của bạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *