Phân tích ý nghĩa và giá trị truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
Hướng dẫn
Ý nghĩa và giá trị truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
- Mở bài:
Tô hoài là một trong những nhà văn lớn trong văn học hiện đại Việt Nam thế kỉ XX. Sáng tác thiên về diễn tả sự thật của đời thường, với vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta. Tác phẩm của Tô Hoài hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động, vốn từ vựng phong phú. Truyện ngắn Vợ chòng A Phủ là tác phẩm tieu biểu nhất của nhà văn Tô Hoài và của nền văn học hiện thực phê phán.
- Thân bài:
Vợ chồng A Phủ (1952) là một trong ba tác phẩm (Vợ chồng A Phủ, Mường Giơn và Cứu đất cứu mường) in trong tập Truyện Tây Bắc. Tác phẩm là kết quả của chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc năm 1952. Đây là chuyến đi thực tế dài tám tháng sống với đồng bào các dân tộc thiểu số từ khu du kích trên núi cao đến những bản làng mới giải phóng của nhà văn.
Kết cấu Vợ chồng A Phủ gồm có hai phần, phần đầu viết về cuộc đời của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài, phần sau viết về cuộc sống nên vợ nên chồng, tham gia cách mạng của Mị và A Phủ ở Phiềng Sa. Đoạn trích là phần đầu của truyện ngắn.
Tác phẩm kể về cuộc đời của đôi trai gái người Mèo là Mị và A Phủ. Mị là một cô gái Mèo xinh đẹp và rất tài hoa, Chỉ vì món nợ truyền kiếp của cha mẹ với nhà thống lí Pá Tra nên Mị bị bắt cóc về làm dâu gạt nợ cho nhà hắn. Ở đây, cô phải sống một cuộc đời tuổi nhục, bị bóc lột sức lao động, bị hành hạ thể xác lẫn tâm hồn,sống không hề có hạnh phúc, sống cuộc sống vô thức, vô cảm. Đêm tình xuân đã đánh thức đã đánh thức nổi khao khát tình yêu và hạnh phúc tưởng như đã chết từ lâu trong lòng Mị.
A Phủ là một thanh niên mồ côi cha mẹ từ nhỏ, lao động giỏi, dũng cảm, được nhiều cô gái mê nhưng vì nghèo nên không cưới nổi vợ. Tết đến A Phủ cũng đi chơi và xảy ra việc đánh nhau với A Sử. Vì tội đánh con quan, A Phủ bị bắt, bị phạt vạ và cuối cùng bị đày làm nô lệ cho thống lí để trừ nợ.
Nghịch cảnh trớ trêu đã đưa hai cuộc đời bất hạnh đến với nhau. A Phủ vì làm mất một con bò nên bị nhà thống lí đánh đập tàn tệ và trói đứng vào cột cho đến chất. Sau nhiều đêm nhìn thấy cảnh ấy, từ dửng dưng đến thương cảm mãnh liệt. Cuối cùng, cô đã cắt dây trói giải thoát cho A Phủ. Trong giây phút nhìn theo con người đang chạy về với tự do, Mị đã quyết định chạy theo, tự giải thoát cho chính mình. Cả hai trốn qua vùng Phiền Sa và trở thành vợ chồng. Tại đây họ cán bộ A Châu và được giác ngộ cách mạng, trở thành du kich chiến đấu đánh giặc bảo vệ dân làng.
Vợ chồng A Phủ là câu chuyện về những người dân lao động vùng cao Tây Bắc không cam chịu bị bọn chúa đất áp bức đày đọa, giam hãm trong cuộc sống tăm tối đã vùng lên phản kháng đi tìm cuộc sống tự do. Tác phẩm khắc họa chân thực những nét riêng về phong tục, tập quán, tính cách, và tâm hồn người dân các dân tộc thiểu số bằng một giọng văn nhẹ nhàng, tinh tế, đượm màu sắc phong vị dân tộc, vừa giàu tính tạo hình vừa giàu tính chất thơ.
Nhân vật Mị
Từ một cô gái trẻ đẹp,tài hoa đến khi làm con dâu gạt nợ nhà thống lí:
Mị là nhân vật chính của tác phẩm. Tác giả trực tiếp giới thiệu Mị ngay từ đầu tác phẩm: “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Mị xuất hiện trong thầm lặng như một cái bóng, một hòn đá vô tri vô giác.
Cách dẫn vào truyện của nhà văn hết sức khéo léo, gây sự tò mò, chú ý của người độc. Có sự đối lập giữa cuộc sống và hoàn cảnh của Mị. Cô là con dâu nhà thống lí Pá Tra giàu có, quyền thế vậy mà phải làm việc luôn tay, lúc nào cũng cúi mặt và buồn rười rượi.
Trước khi về nhà làm con dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị là cô gái trẻ đẹp, tài hoa, yêu đời, lạc quan, đầy sức sống. Mị trẻ đẹp và có tài thổi sáo rất hay. Mị chăm làm, sẵn sàng lao động, không quản ngại khó khăn. Mị yêu đời, yêu cuộc sống tự do, không ham giàu sang phú quý và hết lòng hieus thảo với cha mẹ.
Cô gái Mèo đang tuổi thanh xuân phơi phới và được biết bao chàng trai săn đón. Những đêm tình mùa xuân, trai làng đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị. Cô cũng có người yêu như bao co gái Mèo khác. Thế nhưng, chỉ vì món nợ truyền kiếp của gia đình, Mị trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra, phải chịu số phận đau khổ, tủi nhục: bị áp chế, đầu độc về tinh thần, bị bốc lột sức lao động, bị đối xử tàn tệ…
Sống ở nhà thống lí, Mị nhẫn nhục, cam chịu, tê liệt tinh thần, mất dần ý thức sống. Lúc đầu cô còn cố sức phản kháng. Có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc. Cô khóc vì không thẻ chấp nhận số phận ấy. Cô khóc vì tự cảm thương mình đã không thể sống với chính mình. Rồi Mị định chết. Mị đã sẵn nắm lá ngón khi trở về thăm cha. Nhưng vì thương cha, Mị đã không thể chết. Mị biết nếu Mị chết thì bố Mị còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ nữa. Mị đành trở lại nhà thống lí.
Sau lâu dần thì thôi. Dù sau này cha Mị chết, Mị cũng không muốn chết nữa. Cuộc sống lao động khốc liệt ở nhà thống lí khiến cho tình yêu cuộc sống cũng đã cạn kiệt hoàn toàn. Cô tồn tại trong vô thức. Thậm chí, cô cũng không biết mình đang tồn tại nữa. Bởi ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi.
Không những thế, Mị cũng mất luôn sự nhận thức về công việc. Lúc nào Mị cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt, mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại. người nhà thống lí làm việc không bao giờ ngơi tay. Công việc cứ kéo dài từ sáng đến tối, từ mùa này sang mùa khác. Có lúc, Mị nghĩ mình không bằng con trâu, con ngựa nữa. Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày.
Nhân vật Mị chính là nạn nhân của hủ tục lạc hậu và cường quyền phong kiến miền núi. Thân phận của Mị đâu chỉ là người làm công trả nợ. Nếu người làm công trả nợ như cha mẹ Mị thì có thể món nợ ấy một ngày nào đó sẽ dduwwocj trả hết. Còn Mị, Mị là con dâu gạt nợ. Chúng đã đem Mị về trình con ma nhà ấy rồi. Thân xác Mị bị giam hãm trong công việc khắc khổ còn linh hồn Mị đã bị “con ma” nhà ấy “cai quản”. Đời đời kiếp kiếp Mị cũng không thể nào thoát ra khỏi nơi ấy được nữa.
Nhà văn không chỉ gián tiếp tố cáo sự áp bức bóc lột của bọn địa chủ phong kiến miền núi mà còn nói lên một sự thật đau xót. Dưới ách thống trị của cường quyền bạo lực và thần quyền hủ tục, người dân lao động miền núi Tây Bắc bị chà đạp một cách tàn nhẫn về tinh thần đến mức tê liệt cảm giác về sự sống, mất dần ý niệm về cuộc đời. Họ từ những con người có lòng ham sống mãnh liệt trở thành những người sống mà như đã chết, tẻ nhạt và vô thức như những đồ vật trong nhà. Một sự hủy diệt ý thức sống của con người thật đáng sợ.
Sức sống tiềm tàng, khát vọng hạnh phúc và sự phản kháng mạnh mẽ:
Trong đêm tình mùa xuân, khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình, sức sống mãnh liệt đã hồi sinh, bật dậy xốn xang trong lòng Mị. Mùa xuân về, thiên nhiên đất trời thay đổi. Không khí đón tết náo nức. Tất cả có tác động làm lay thức tâm hồn tươi trẻ của nhân vật Mị nhưng chưa đủ để cô thức tỉnh. Tiếng sáo, một biểu tượng của khát vọng tự do, tình yêu, tuổi trẻ văng vẳng vọng về trên đồi cao mới là nguồn thôi thúc mãnh liệt khát vọng trong Mị.
Nhà văn đã diễn tả diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân năm ấy thật chân thực và cảm động. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi. Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi. Mị bắt đầu có ý thức về thời gian, Mị nhớ về quá khứ, sống lại quá khứ tươi đẹp, thấy mình còn trẻ, ý thức về thân phận: đau khổ, uất ức, chỉ muốn chết.
Nhưng tiếng sáo vẫn thiết tha lay gọi, đã thổi bùng lên khát vọng sống, khát vọng tự do. Mị không còn muốn chết nữa. Đêm tình mùa xuân, khi cả nhà đã di chơi, Mị lén láy hũ rượu ra uống. Đó là hành dộng bất ngờ bởi vì từ lúc về làm dâu, chưa bao giờ cô muốn uongs rượu. Người ta chỉ uống rượu khi vui, không ai uống rượu vì buồn. Nhìn cái cách Mị uống rượu: uống ực từng bát ai cũng nhận ra Mị đang rất buồn. Cô như đang nuốt căm giận và chua chát cho cuộc đời của mình.
Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước. Cả khi cô bị A Sử trói đứng vào cột, cô vẫn còn say. Mị vẫn không biết mình bị trói, vẫn sống với tiếng sáo, bồi hồi tha thiết, lúc mê lúc tỉnh…. Mị đau khổ, chập chờn giữa quá khứ và hiện tại. Tiếng sáo vẫn vẫy gọi. “Mị vùng bước đi” nhưng bị dây trói thắt chặt, Mị trở lại hiện tại và không còn nghe thấy tiếng sáo nữa mà chỉ nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách.
Sau những đêm tình mùa xuân rộn rã, cuộc sống trở lại như lúc ban đầu. Công việc lại đến công việc. tiếp diễn không bao giờ dứt. hơi rượu nồng nà của đem ấy cũng sớm phai tàn trên đôi môi của Mị. Cô cũng không buồn nhớ đến nữa. Cứ ngỡ ràng cuộc đời Mị sẽ mãi như thế nếu không có cuộc gặp gỡ định mệnh giữa cô với A Phủ, một chàng trai Mèo bị bắt ở trừ nợ chỉ vì đáng A Sử.
Làm mất một con trâu, A Phủ bị thống lí Pá Tra trói đứng, bỏ đói khát suốt ba ngày ba đêm, đang đối mặt với cái chết. A phủ đã hoàn toàn tuyệt vọng. Thế nhưng, có ai biết, ánh lửa lập lòe phía bên trong vách luôn mang lại cho anh tia hi vọng mong manh mà lúc nào trong thấy, anh đều chăm chăm nhìn lấy.
Những đêm mùa đông lạnh lẽo, Mị thường thổi lửa hơ tay cô đơn, lặng lẽ bên bếp lửa. Ban đầu, khi nhìn thấy A Phủ, Mị vẫn thản nhiên. Nhưng khi nhìn thây A Phủ khóc, những giọt nước mắt lăn dài tren đôi má gầy đen, cảm xúc của Mị đã dần sống lại. Mị nhớ lại mình cũng từng bị chồng trói đứng a đồng cảm, thương xót cho A Phủ. Cô nhận thức được sự độc ác của bọn thống trị “chúng nó thật độc ác”. Mị muốn cứu A Phủ lắm nhưng khi tưởng tượng nếu A Phủ trốn đi, cô sẽ bị trói thay vào đó, trong lòng bỗng run sợ.
Nhưng càng suy nghĩ, nỗi sợ hãi trong Mị biến mất. Tấm lòng cảm thương đối với kiếp người vô tội phải bị đày đọa cho đến chết. Cô nhận rõ: mình đã trình ma nhà này có chết cũng làm ma nhà này. Còn người kia tội gì phải chết. Sự thức tỉnh về quyền sống, quyền làm con người đã thúc giục Mị đi đến hành động quyết liệt. Cô quyết định cắt dây trói cứu A Phủ. Rồi cô cũng vùng chạy theo A Phủ. Bóng tối mở đường cho họ tiến về với tự do.
Hành động cắt dây trói cứu A Phủ là hành động xuất phát từ tình thương, từ sự đồng cảm giai cấp, thể hiện sự phản kháng chống lại cường quyền áp bức, chống lại mọi sự chà đạp lăng nhục con người. Hành động Mị chạy theo A Phủ là hành động bất ngờ, để tự cứu mình: “A Phủ cho tôi đi”, “ ở đây thì chết mất” thể hiện khát vọng tự do, sức sống mãnh liệt trong Mị.
Đây là hành động có ý nghĩa quyết định, đánh dấu bước ngoặt đổi đời của Mị. Cắt dây trói cứu A Phủ là Mị đã tự cắt sợi dây vô hình trói cuộc đời mình thoát khỏi cường quyền,thần quyền ở nhà thống lí Pá Tra để tự giải phóng mình.
Nhân vật Mị được xây dựng với tâm lý phức tạp, vừa cam chịu nhẫn nhục bên ngoài vừa phản kháng âm ỉ bên trong, với sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Người nô lệ bị áp bức bức bốc lột không có con đường nào khác là phải tự vùng lên tự giải phóng mình. Và Mị đã làm được điều đó, để đến với cách mạng. Đây chính là chiều sâu tư tưởng làm nên giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Nhân vật A Phủ
Nhân vật A Phủ được giới thiệu bất ngờ qua trận đánh nhau với A Sử, rồi bị bắt trói, bị đánh đập dã man trong đám xử kiện lạ lùng, sau đó mới giới thiệu lai lịch hoàn cảnh. Cách giới thiệu gây ấn tượng mạnh mẽ về tính cách nhân vật.
A Phủ có một số phận éo le:
Anh mồ côi cha mẹ. Lúc bé làm thuê hết nhà này đến nhà khác. Thậm chí, anh còn bị bắt và bán cho người Thái bởi một người nghèo khó. Lớn lên, A phủ nghèo quá nên không lấy được vợ. Khi đi ở trừ nợ cho nhà thống lí Pá Tra, A Phủ bị bốc lột sức lao động đến cùng cực, phải làm những việc nặng nhọc nguy hiểm. Thậm chí, chúng muốn cướp đi sinh mệnh của anh chỉ vì làm mất một con bò. A Phủ chính là nạn nhân của hủ tục lạc hậu và cường quyền phong kiến miền núi như Mị.
A Phủ là nhân vật có tính cách mạnh mẽ cứng cõi, có tinh thần phản kháng và sức sống mãnh liệt
Cuộc sống gian khó đã rèn cho A Phủ nhiều đức tính tốt đẹp. Anh hiền lành, lại giỏi giang. ANh biết đúc lưỡi cày và làm việc rất giỏi. Có người còn khen rằng ai lấy được A Phủ là như có được một con trâu tốt, chẳng mấy chốc thì giàu có lên thôi.
A Phủ dũng cảm và gan góc. Mới 10 tuổi, A Phủ bị người làng bắt bán đổi thóc cho người Thái, nhưng đã gan bướng không thích ở dưới cánh đồng thấp, trốn thoát lên núi cao. Anh dám đánh cả con nhà quan, không hề e ngại. khi bị bon nhà thống lí đánh đập, A Phủ gan lì quỳ chịu đòn trong cuộc xử kiện.
A Phủ là người yêu tự do, sống mạnh mẽ lạc quan. Dù rất nghèo, mồ côi, không thể nào lấy vợ nổi, thế nhưng ngày xuân A Phủ vẫn cùng trai làng đem sáo, khèn, đem con quay, quả pao, quả yến đi tìm người yêu. Anh tự tạo dựng cho mình một không gian sống phóng khoáng gần gũi với thiên nhiên “quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruỗi ngoài gõ ngoài rừng” chăn bò, săn bắt, làm nương rẫy…
Ở A Phủ cõ sức sống tiềm tàng, mãnh liệt. Khi biết phải chịu chết oan ức, A Phủ đã khóc vì đau xót và bất lực. Anh gần như tuyệt vọng trong cơn khát, cơn đói và sự xiết chặt của những vòng dây trói trong mùa đông năm ấy. Thế nhưng, tình yêu cuộc sống, sức sống vẫn tiềm tàng trong anh. Khi được Mị cắt dây trói, dù kiệt sức ‘‘khuỵu xuống không bước nổi’’, nhưng A Phủ đã ‘‘quật sức vùng lên chạy ’’.
Thông qua cuộc đời và số phận của vơ chồng A Phủ, nhà văn Tô Hoài đã miêu tả chân thực số phận cực khổ của người dân nghèo miền núi trước Cách mạng tháng 8. đồng thời phơi bày bản chất tàn bạo của giai cấp thống trị ở miền núi lúc đó.
Truyện thể hiện tình thương yêu, sự đồng cảm sâu sắc của nhà văn đối với thân phận đau khổ của người dân lao động miền núi trước Cách mạng. Tác phẩm lên tiếng tố cáo, lên án, phơi bày bản chất xấu xa, tàn bạo của giai cấp thống trị ở miền núi. Qua đó cũng thể hiện sư trân trọng và ca ngợi vẽ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khả năng cách mạng của nhân dân Tây Bắc…
Tô Hoài đã vận dụng triệt để thủ pháp nghệ thuật đối lập và tương cận trong xây dựng các nhân vật có nhiều điểm đặc sắc. A Phủ được miêu tả qua hành động còn Mị chủ yếu qua khắc họa tâm lí. Con người và cảnh vật hoàn toàn đối lập nhau.
Cách trần thuật linh hoạt, uyển chuyển. Cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ, tự nhiên mà ấn tượng ; kể chuyện ngắn gọn, dẫn dắt tình tiết khéo léo.
Tô hoài có biệt tài về miêu tả cảnh thiên nhiên và phong tục tập quán của người dân miền núi. Ông tỏ ra am hiểu cuộc sống và phong tục của người miền núi. Không những thế, ông bám sát lối sống, lối sinh hoạt của họ, đi sau vào khắc họa đời sống tinh thần một cách sắc xảo, chân thực như nó vốn có. Ngôn ngữ sinh động chọn lọc và sáng tạo. Câu văn giàu tính tạo hình và thấm đẫm chất thơ…
- Kết bài:
Vợ chồng A Phủ là một thành công lớn của nhà văn Tô Hoài và của nền văn học Việt Nam thế kỉ XX. Tác phẩm đặt ra vấn đề số phận con người – những con người dưới đáy xã hội – những con người bị tước đoạt hết tài sản, bị bóc lột sức lao động và bị xúc phạm nặng nề về nhân phẩm. Giải quyết vấn đề số phận con người, Tô Hoài đã thức tỉnh họ, đưa họ đến với cách mạng và cho họ một cuộc sống mới.
Theo hoctotnguvan.vn