Suy nghĩ về trí và nhân – Ngữ Văn 12

Khổng Tử là một nhà tư tưởng lớn của Trung Quốc, người được tôn làm ông tổ đạo Nho – hệ thống lí luận về chính trị, văn hoá, xã hội đã làm chỗ dựa tinh thần của chế độ phong kiến trong hàng nghìn năm.

Suy nghĩ về trí và nhân qua câu chuyện sau:

“Thầy Từ Lộ đến bái kiến đức Khổng Tử. Khổng Tử liền hỏi:

– Thế nào là người trí, thế nào là người nhân?

Tử Lộ thưa:

 – Người trí là người làm thế nào để cho người ta biết tới mình; người nhân là người làm thế nào để người ta yêu mình.

Khổng Tử khen:

– Người nói như vậy, chứng tỏ là người có học vấn.

Hôm sau thấy Tử Cống đến viếng thăm, Khổng Tử cũng hỏi giống như trước. Tử Cống liền thưa:

– Người trí là người biết người; người nhân là người yêu người.

Khổng Tử khen:

 – Người nói như vậy cũng là người có học vấn.

Hôm sau nữa, thầy Nhan Hồi đến bái kiến, Khổng Tử vẫn dùng câu hỏi cũ.

 . Nhan Hồi liền đáp:

Người trí là người tự biết mình; người nhân là người tự yêu mình.

Khổng Từ nói

– Ngươi nói như vậy mới đáng gọi là bậc sĩ quân tử”

Bài làm

Khổng Tử là một nhà tư tưởng lớn của Trung Quốc, người được tôn làm ông tổ đạo Nho – hệ thống lí luận về chính trị, văn hoá, xã hội đã làm chỗ dựa tinh thần của chế độ phong kiến trong hàng nghìn năm. Sau khi nhà Tần “đốt sách đạo Nho”, việc tìm hiểu tư tưởng của ông gặp nhiều khó khăn, phần lớn là thông qua những mẩu chuyện, những câu nói của ông mà học trò đã ghi chép lại. Câu chuyện Trí và nhân chúng ta bàn luận dưới đây là một trong những mẩu chuyện như thế. Truyện rất ngắn mà hàm chứa bao triết lí sống của cổ nhân, cho ta thấy rõ nền cựu học của cha ông xưa sâu sắc đên nhường nào.

Trí và nhân là hai khái niệm thuộc ngũ thường (nhân, lễ, nghĩa, trí, tín) của Nho giáo trong đó trí và nhân được đề cao, coi là thước đo cái đức của người quân tử. Chữ trí chiết tự ra gổm chữ tri (biết) và chữ nhật (ngày), như vậy hiểu nôm na là biết rõ trắng đen phải trái. Còn chữ nhân – phạm trù cao nhất của lí luận đạo đức – nghĩa là lòng thương với muôn loài, vạn vật. Không Tử nói: “Người không có nhân thì lễ để mà làm gì? Người không có nhân thì nhạc mà làm gì?” (Luận ngữ).

Những khái niệm cơ bản là như thế nhưng đường lối thực hiện hai chữ ấy thì là một vấn đề cần phải suy nghĩ cho thấu đáo. Nó phức tạp đến mức Khổng Tử hỏi: “Thế nào là người trí, thế nào là người nhân?” thì ba học trò giỏi nhất của Ngài đã đưa ra ba câu trả lời khác nhau. Từ Lộ, Tử Công, Nhan Hồi những người cùng thời, đều là học trò của Khổng Tử vậy mà lại quan niệm cùng một vấn để rất khác nhau, điều này cho thấy sự khác biệt trong nhận thức và thiên hướng tính cách của mỗi người. Sau đây chúng ta sẽ cùng bàn về quan niệm của từng người.

Trước tiên là câu trả lời của thầy Tử Lộ: “Người trí là người làm cho người ta biết đến mình, người nhân là người làm người ta yêu mình”.

Có thế nói chữ trí của Tử Lộ được xây dựng trên cơ sở vốn kiến thức sâu của một người tài giỏi mong muốn được công nhận, được người đời biết đến. Nghĩa là nó nặng về mặt trí tuệ, học vấn – một thứ trí tuệ phải thật xuất chúng, nổi bật. Cũng như một bông hoa đẹp có thể thu hút bướm ong cả trăm dặm, cho đến khi cánh tàn nhụy rữa hương thơm vẫn còn đọng lại trong mật vàng, người có trí tuệ mẫn tiếp sẽ được muôn người biết đến, tiếng vang cả nghìn dặm, đến khi khuất núi, sử sách vẫn còn lưu tên. Qua đây có thì quan niệm của thầy Tử Lộ thâm nhuần thuyết chính danh của Nho gia. Nghĩa là trang nam tử phải chính danh, thành danh, nhưng không dừng lại ở đó phải hiến danh, thậm chí lưu danh thiên cổ. Thế nên Tử Lộ xứng với lời khen của thầy: “Ngươi nói như vậy chứng tỏ là người có học vấn”.

Quan niệm về chữ nhân cũng thống nhất với cách quan niệm về chữ trí của Tử Lộ đã lấy bản thân mình làm trung tâm cho các mối quan hệ xã hội: “làm thế nào để người ta yêu mình”. Nghe qua thì thấy suy nghĩ này có vẻ ích kỉ, giống như quan niệm của một người vô cùng khéo léo trong ứng xử nhưng không thật tâm. Nhưng xét cho cùng thì đây là một suy nghĩ đúng và không dễ thực hiện. Trong cuộc sống, ta phải tiếp xúc với biết bao người, tốt có, xấu có, không làm mất lòng ai đã là khó, có thể hướng thiện cho người ta lại càng khó. Chỉ có bậc thánh nhân mới có thể làm được bởi lẽ để người ta yêu thật lòng tận tâm, tận lực với mình thì mình cũng phải chân thật xứng với lòng yêu quý người, có thế thì tình của đôi bên mới bền lâu. Quan niệm này chứng tỏ Tử Lộ là người “vụ ngoại”. Thực tế cuộc đời ông đã minh chứng cho quan điểm ông là người nổi tiêng về chính sự, từng làm quan to, giàu có và được nhiều người yêu mến, kính nể.

So với Tử Lộ, ý kiến của Tử Cống sâu xa hơn một bậc. Khi được hỏi Tử Cống đáp: “Người trí là người biết người; người nhân là người yêu người”

Về trí, Từ Lộ và Tử Cống gặp nhau ở chỗ đều cho rằng gốc của trí là trí tuệ, nghĩa là khả năng phân biệt thiện – ác, đúng – sai. Nhìn người, hiểu người vốn là cái sự rất khó ở đời, nhất là khi thật giả trắng đen lẫn lộn. Phải là người trải nghiệm nhiều, có con mắt tinh đời mới có thể nhìn ra cái ranh giới mong manh ấy. Làm được điều ấy thực đã tài giỏi lắm thay! Không ai có thể phủ nhận Gia Cát Lượng là một bậc tài trí hiếm có không chỉ bởi tài năng quân sự xuất chúng mà còn bởi khả năng nhìn thấu gan ruột người khác. Chẳng phải ông đã mắng đúng và trúng đến nỗi Chu Du uất ức hổ thẹn mà phải tự vẫn đó sao? Trong quân sự, “biết người” là điều quan trọng, không thể thiếu. Truyện xưa kể rằng: Vua Trang Vương nước Kinh muốn đánh Trần mới cử người đi thăm dò, khảo sát Người ấy về tâu: Không nên đánh vì nước Trấn “thành cao, hào sâu, kho tàng nhiều” chỉ riêng Ninh Quốc là khuyên đánh vì cái lẽ: nước Trần nhỏ mà được như vậy chắc là thuế má, lao dịch nặng nề, như thế thì dân kiệt sức, oán hận. Quả nhiên sau đó nước Kinh đã lấy được Trần. Thế nên bậc tài trí khác người thường ở chỗ không chỉ thấy bề nổi mà còn rõ cái sâu xa, gốc rễ của vấn đề. Còn trong quan hệ xã hội, “biết người” là một ưu điểm, lợi thế lớn giúp ta sống hoà thuận, hạnh phúc. Xin trích dẫn lời của Quản Trọng khóc bạn là Bão Thúc mất là đủ rõ: “Sinh ta ra là cha mẹ, biết ta là Bão Thúc. Mà đối với người biết mình, mình đem cả tính mệnh ra hiến còn chưa cho là quá, huông chi đang khóc thế này đã thấm vào đâu”. Chao ôi! Các tình tri kỉ ở đời thật không gì sánh được!

Quan niệm chữ nhân của Tử Cống có vẻ sâu sắc hơn vì chữ nhân ấy vì người nhiều hơn vì mình. Người ta có thế dễ dàng yêu cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái… chứ thường khó mở lòng với những người xa lạ. Người thương yêu tất thảy chúng sinh, đau nỗi đau của thiên hạ, người quảng đại, nhân ái như vậy thực không nhiều. Giống như quy luật tiếng vang, cho đi cái gì sẽ nhận lại cái đó, nếu ta thương yêu người thực lòng, người cũng sẽ thương yêu ta. Khổng Từ nói: “Người nhân không sợ”. Trong trường hợp này thực đúng như thế. Niềm vui lớn nhất của đời người gắn với hai chữ yêu thương. Biết yêu và được yêu, đó là điều kì diệu của cuộc sống, có thể xoa dịu nỗi đau và chỉ cho ta vẻ đẹp của cuộc đời. Sống như vậy thiết nghĩ không phải lo lắng, âu sầu gì cả. Nghĩ được như thế này, thầy Tử Cống ắt hăn là người nhân ái, độ lượng, có thể quên mình vì người. Câu nói của Anh-xtanh sau này có thế coi là sự tiếp nối tư tưởng của Tử Cống: “Một cuộc sống vì một cuộc sống khác mới là cuộc sống xứng đáng”.

Điểm chung trong quan niệm của Tử Lộ và Tử Cống là đặt trí và nhân trong môi quan hệ giữa mình và người khác. Khổng Tử khen hai người là có học vấn. Từ “khen” thường dùng theo nghĩa người trên nói với người dưới, nó hàm chứa sự khích lệ nhưng dường như Khổng Tử vẫn còn có điều gì chưa thật sự hài lòng, vừa ý với hai học trò của mình, bởi vì nếu bằng lòng rồi thì Ngài sẽ không hỏi ngưòi khác nữa. Nhưng khi đánh giá Nhan Hồi, Ngài lại “nói” chứ không phải “khen” với một thái độ công nhận nghiêm túc: “Người nói như vậy mới đáng gọi là bậc sĩ quân tử”. Khoảng cách giữa hai người đối thoại đã được rút ngắn. Qua đây, Khổng Tử cũng biểu lộ sự đồng ý, tán thành với Nhan Hồi. Đó là vì Nhan Hồi đã tới được tận gốc của vấn đề. Nêu tư tưởng của Tử Lộ hiện ra như lá cành xanh tốt, tư tưởng của Tử Cống là rễ nuôi cây, Nhan Hồi đích thực là mầm sống đầu tiên của cái cây đó.

Câu trả lời của thầy Nhan Hồi – một người nổi tiếng về đức hạnh, rất đáng để ta ghi nhớ: “Người trí là người tự biết mình, người nhân là người yêu mình”.

Chữ trí này được xét trong mối quan hệ giữa mình với bản thân mình chiếu hướng tiếp cận này gây cho ta ít nhiều bất ngờ. “Biết mình” – đó là cái ít nghĩ đến nhất, nhưng cũng gần gũi nhất. Người ta hay tự cho rằng đã hiểu mình rõ lắm rồi, nhưng thực tế lại rất hay mâu thuẫn với mình, không rõ mình thực sự là ai, mình như thế nào, mình muốn gì,… Mà không biết mình thì tai hại biết chừng nào! Như Đông Thi bắt chước Tây Thi nhăn mặt mà khiến cho người ta sợ hãi, như vậy phẳng phải là tự hại mình hay sao? “Biết mình” còn khó hơn “biết ngưòi”, phải trải qua quá trình luyện rèn mới làm được. Phàm khi tâm trí mình đã đinh ninh thế nào thì cảnh sắc bên ngoài lại hiện lên thec chiếu hướng đó. Cái tôi cá nhân thường che lấp mất sự minh mẫn của trí óc mà ta lại hay lấy mình ra làm thước đo cuộc sống xung quanh. Nếu nhận thấy không đầy đủ, tâm mình không trong sáng thì thế giới bên ngoài ắt sẽ bị bóp méo theo cái nhìn lệch lạc ấy. Khó ở chỗ người ta thường hay ảo tưởng về mình. Nếu tự đánh giá thấp bản thân thì thành tự ti mà nêu đánh giá cao thì lạ thành kiêu ngạo. Con người chuẩn mực thì phải tự tin, có chí cầu tiến gặp người giỏi hơn thì không ghen ghét, gặp người kém hơn thì không khinh ngạo Một khía cạnh khác của việc “biết mình”, đó là biết rõ ưu khuyết điểm của mình đế ngày càng hoàn thiện hơn như Tuân Tử nói: “Thấy người hay thì phai cố mà bắt chước. Thấy người dở thì phải tự xem xét mình có dở như thế không để mà sửa đổi”. Nêu làm được những điều ấy chắc chắn phải là người biết quy trọng phẩm giá của mình, không ai có thể khinh lờn được. “Biết mình” thì ắt “biết người” bởi vì những bản tính của con người chẳng phải đều có trong ta hay sao? Những người “biết mình” mới tu tỉnh được tâm thân, cải quá thiên nhiên mà nên người với những phẩm chất như thế, “Hữu xạ tự nhiên hương”, chắc chắn sẽ được người ta biết đến, yêu mến, nể phục.

Ouan niệm của Tử Cống về chữ nhân tuy sâu sắc hơn Tử Lộ nhưng vẫn chưa đạt đến sự uyên thâm như Nhan Hồi. Nhan Hồi học cách yêu thương mình trước khi yêu thương vạn vật, đây không phải là sự vị kỉ hẹp hòi như có người từng đánh giá bởi bốn lí do. Thứ nhất, bản thân mình là đáng quý nhất, trung thành, không bao giờ phản bội. Sách Hàn thi ngoại truyện có ghi câu chuyện vị quan Công Nghi Hưu vốn thích ăn cá nhưng lại không nhận cá biếu. Ông đã giải thích một cách dí dỏm: nếu bây giờ tôi nhận cá sẽ tiếng thanh liêm trong dân, quan trên không tin dùng, có thế bị giáng chức lúc ấy thì chẳng có tiền để mua cá nữa. Chao ôi! Người ta chiều mình vì muốn nhờ cậy mình thì chỉ được một thời, sao bằng chính mình trọng lấy mình là kế lâu dài mãi mãi. Thứ hai, yêu mình thì mới biết yêu người. Nếu ta biết sức khoẻ cùa mình là quan trọng thì tất sẽ không làm hại đến sức khoẻ của khác. Đó là cách yêu người nhân đạo nhất. Thứ ba là: yêu mình là một yêu người. Nếu con người còn không biết quý trọng bản thân mình, phung phí thời gian, sức khoẻ, tuy không phương hại trực tiếp đến cha mẹ nhưng làm mẹ cha lo lắng, ưu phiền, vậy có thể coi là người yêu kính cha mẹ không? Đối với những người yêu ta, chỉ cần họ sống vui vẻ thì ta cũng vui vẻ, họ thất bại ta cũng thầy đau buồn, vì thế phải biết quý bản thân mình. Làm vui, yên lòng những người thân yêu. Cuối cùng, tự yêu mình, tự biết sẽ làm người ta thanh thản không lo âu vì biết hài lòng với những gì đang có, không phải miệt mài tìm kiếm hạnh phúc ở một nơi xa vời để cùng mãi không được hạnh phúc. Tóm lại, đây là một quan điểm vượt ra ngoài khuôn khổ sách vở, ý tứ sâu xa đáng để người đời học tập. Thầy Nhan không những tinh thông sách vở mà còn là người rất đạo đức, thật xứng là bậc “sĩ quân tử” như Không Tử ngợi khen.

Trong thòi đại ngày nay, khi nền cựu học đã lùi xa vào quá khứ, cuộc sống hiện đại hối hả cuốn chúng ta đi, đôi khi dừng lại đọc và suy ngẫm câu chuyện này vào một buổi chiều yên tĩnh, bỗng dưng thấy mình sâu sắc hơn thật nhiều, nhận ra mình còn quá vô tình với bản thân, với mọi người. Rõ ràng những tinh hoa triết lí như vậy không hề bị mai một với thời gian. Câu hỏi của đức Khổng Tử đến nay vẫn chờ đợi câu trả lời của tất cả những ai có khát khao tự hoàn thiện mình.

Nguyễn Khánh Chi

(Lớp Văn K40, khối THPT chuyên – ĐHSP Hà Nội)

Hoctotnguvan.vn

Bài liên quan

Bài viết số 3 lớp 12 đề 1: Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc – Tố Hữu

Bài viết số 3 lớp 12 đề 1: Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc – Tố Hữu

Bài viết số 3 lớp 12 đề 1: Tính dân tộc trong bài thơ Việt…
Giải bài tập Ngữ văn lớp 12: Kiểm tra tổng hợp cuối học kỳ 1

Giải bài tập Ngữ văn lớp 12: Kiểm tra tổng hợp cuối học kỳ 1

Giải bài tập Ngữ văn lớp 12: Kiểm tra tổng hợp cuối học kỳ 1…

Bình luận

Địa chỉ email của bạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *