3. “Thú lâm tuyền” – cũng như “thú điền viên” – là một tình cảm thanh cao, một nét đẹp cổ truyền thống từ xưa.
1. Bài thơ thuộc thể thơ tứ tuyệt. Một số bài thơ cùng thế thơ này mà đã học: Cảnh khuya, Nguyên tiêu (Rằm tháng giêng)…
2. Bài thơ bốn câu thật tự nhiên, bình dị, giọrg điệu thoải mái, pha chút vui đùa hóm hỉnh, tất cả toát lên một cảm giác vui thích sảng khoái.
Câu thơ đầu có giọng điệu thật thoải mái, phơi phới, cho thấy Bác Hồ sống thật ung dung, hòa điệu nhịp nhàng với nhịp sống núi rừng:
Sáng ra bờ suối/ tối vào hang.
Câu thơ ngắt nhịp 4/3, tạo thành hai vế sóng đôi, toát lên cảm giác về sự nhịp nhàng, nề nếp: sáng ra, tối vào…
Câu thứ hai vẫn tiếp tục mạch cảm xúc đó, có thêm nét vui đùa: lương thực, thực phẩm ở đây thật đầy đủ, đầy đủ tới dư thừa “cháo bẹ, rau măng” luôn có sẵn:
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Có người hiếu ý câu thơ này là dù phải ăn chỉ có cháo bẹ, rau măng rất khổ nhưng tinh thần vẫn sẵn sàng. Hiểu như vậy không sai về ngữ pháp nhưng không phù hợp với tinh thần chung, giọng điệu chung (đùa vui thoái mái) của bài thơ, cũng tức là không thật phù hợp với cảm xúc của tác giả.
Câu thứ nhất nói về việc ở, câu thứ hai về ăn, câu thứ ba về làm việc, cả ba câu đều thuật tả sinh hoạt của tác giả ở Pác Bó, để toát lên cảm giác thích thú, bằng lòng.
Hai câu này (và cả bài thơ cũng vậy) làm gợi nhớ mạch xúc của bài cánh rừng Việt Bắc (1947) của Bác Hồ cũng cũng diễn tả niềm vui thích, sảng khoái đặc biệt trong cuộc sống ở rừng chắc chắn có nhiều gian khổ lúc bấy giờ:
Cành rừng Việt Bắc thật là hay
Vượn hót chim kêu suốt cả ngày
… Non xanh nước biếc tha hồ dạo.
Rượu ngọt chè tươi mặc sức bay
Trong câu thứ ba, hình tượng người chiến sĩ bỗng nổi bật, như được đặc tả bằng những nét đậm, khỏe, đầy ấn tượng:
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng Chông chênh là từ láy miêu tả duy nhất của bài thơ, rất tạo hình và gợi cảm Ba chữ dịch sử Đảng toàn vần trắc, toát lên cái khỏe khoắn, mạnh mẽ. gân guốc. Trong một bài tứ tuyệt, câu thứ ba thường có vị trí nổi bật. thường là hình ảnh trung tâm của bài thơ. Như vậy, trung tâm của bức tranh Pác Bó là hình tượng người chiến sĩ được khắc họa vừa chân thực, sinh động, lại vừa như có một tầm vóc lớn lao, một tư thế uy nghi, lồng lộng, giống như một bức tượng đài về vị lãnh tụ cách mạng. Bác Hồ đang dịch lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô – đồng thời, chính là đang xoay chuyển lịch sử Việt Nam nơi “đầu nguồn”… Cảnh ấy, cuộc sống cách mạng ấy quả thật là đẹp, “thật là sang” Chừ sang kết thúc bài thơ có thể coi là chừ thần, chừ mắt (nhãn tự), đã kết tinh, tỏa sáng tinh thần toàn bài.
3. “Thú lâm tuyền” – cũng như “thú điền viên” – là một tình cảm thanh cao, một nét đẹp cổ truyền thống từ xưa. Bao triết nhân hiền giả, gặp lúc thời thế nhiễu nhương, lầm bụi, không thế nhập thế hành đạo giúp đời, đã từ bỏ công danh, tìm đến cuộc sống ẩn dật chốn suối rừng, bạn cùng hoa cỏ gió trăng, giữ tâm hồn trong sạch.
Vui “thú lâm tuyền” thì cũng có nghĩa là vui với cái nghèo. Vui cảnh nghèo cũng là một chủ đề, một cảm hứng lớn, đế lại cả một mạch, sáng tác trong thi ca truyền thống. Nguyễn Bỉnh Khiêm viết:
Khó thì mặc khó có nài bao Càng khó bao nhiễu chí mới hào và: Trúc biếc nước trong ta sẵn có Phong lưu rất mực dế ai bì Nguyễn Trãi cũng viết:
Muốn chung chín vạc để làm gì?
Nước lã cơm rau hãy tri túc
Càng nghèo càng cảm thấy “hào”, thiếu thốn đủ thứ mà cảm thấy uphong lưu rất mực”, tự cho là “tri túc”…! Vì thế, cái phong vị nghèo ấy lại là biểu hiện của cao quý, của giàu sang – giàu sang về tinh thần, về đạo lý
Bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” cho thấy rõ “thú làm tuyền” và niềm vui cảnh nghèo của Bác Hồ khi ở Pác Bó. Dường như Người thật sự hòa nhịp với điệu sống nơi núi rừng, như một tiên ông, một “khách lâm tuyền”
Có điều, đây không phải là một ẩn sĩ trốn đời mà là một nhà cách mạng vĩ đại đang nếm mật nằm gai, hoạt động cách mạng bí mật. Và sự nghiệp cách mạng ấy chỉ cho phép Người hưởng niềm vui thú được sống với rừng, suối (thú lâm tuyền) trong hoan cảnh đẩy khi: Bác ở Pác Bó và sau đó ở Việt Bắc. Phần lớn cuộc đời của Người: dành cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Hoctotnguvan.vn