Đề bài: Cảm nghĩ của em sau khi đọc Con chó Bấc trích tiểu thuyết Tiếng gọi nơi hoang dã của G.Lân-đơn
Bài làm
Sự gắn bó đến mức yêu thương quyến luyến giữa con người với con vật và giữa con vật với con người là điều hết sức tự nhiên. Con người quý con vật vì chúng là những vật nuôi có ích, còn con vật thì hiền lành, nhớ bổn phận và biết đền ơn. Song quan hệ chỉ dừng ở đó, ở chỗ con vật nuôi dù quý chủ đến đâu cũng chỉ có tính chất bản năng. Tục ngữ có câu “Chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng” thể hiện một phần tính chất bản năng đó. Tiểu thuyết Tiếng gọi nơi hoang dã với trích đoạn Con chó Bấc lần đầu tiên có một cái nhìn mới mẻ hơn, sâu sắc hơn, thấm thìa và cảm động hơn rất nhiều về mối quan hệ vốn giản đơn, quen thuộc ấy. Cái nhìn đậm chất nhân văn, sáng tạo trong cách thể hiện, mang đến cho con người một hạnh phúc nho nhỏ nhưng đáng quý biết bao.
1.Tình cảm của Thoóc-tơn với con chó Bấc là tình cảm yêu thương đậc biệt. Bấc là kẻ thấu hiểu và mang ơn. Trong ý nghĩ thầm kín và sâu xa, nó cảm thấy diễm phúc được gặp con người này, con người không chỉ cứu sống nó mà còn là một người cha. Chỉ là một người cha mới có khả năng chăm sóc “con cái” của mình như vậy, chăm sóc chu đáo, tận tình và không còn giới hạn của sự thương yêu. Vì sao lại như thế, Bấc chỉ còn biết tự trả lời “bởi vì anh không thể nào không chăm sóc. Và anh còn chăm sóc nhiều hơn nữa kia”. Ấy là chưa nói cái cách chăm sóc của Thoóc-tơn không giống bất kì ai và hơn bất kì ai, hơn những cậu con trai của ông Thẩm, hơn những đứa cháu nhỏ của ông Thẩm đã đành, còn hơn cả cách đối xử “trịnh trọng và đường hoàng” của chính ông Thẩm nữa. Cái cách mà Thoóc-tơn chuyện trò, những lời mà anh rủ rỉ được gọi là “tầm phào” ấy làm cho cả hai (người nói và kẻ nghe) thích thú. Còn thích thú hơn nữa, ấy là cử chỉ thân ái của anh “túm chặt lấy đầu Bấc rồi dựa đầu anh vào đầu nó”. Trong những phút cao hứng này, Bấc còn nghe những tiếng rủa từ miệng anh khe khẽ thốt lên mà nó cho là “những lời nói nựng âu yếm”. Hạnh phúc lớn lao mà con Bấc có được từ Thoóc-tơn là không có gì so sánh được, “không có gì vui sướng bằng”. Những lúc được “đẩy tới đẩy lui” như thế của Thoóc-tơn, nó tưởng như “quả tim mình nhảy tung ra khỏi cơ thể”. Còn lúc buông ra rồi, nó như một đứa trẻ “bật vùng dậy trên hai chân, miệng cười, mắt long lanh”. Những âm thanh trong họng Bấc rung lên “không thốt nên lời” làm cho chính Thoóc-tơn không chỉ ngạc nhiên và mừng rỡ : “Trời đất ! Đằng ấy hầu như biết nói đấy !”. Đó là một đứa trẻ đang học nói, đang muốn nói bằng một thứ ngôn ngữ riêng mà con người vẫn có khả năng hiểu được. Điều kì lạ này không phải lúc nào cũng có thể xảy ra. Tất cả từ tấm lòng của Thoóc-tơn với con vật của mình. Tình yêu ấy, qua cảm nghĩ của Bấc được miêu tả bằng biện pháp song hành : lúc thì cử chỉ, khi thì lời nói, mở ra nhiều bình diện và nâng cấp, mỗi lúc một trìu mến, thương yêu lại tăng lên một bậc, tình nghĩa của Thoóc-tơn thật dồi dào không còn gì là giới hạn nữa.
2.Tình cảm của con Bấc đối với Thoóc-tơn là tình cảm tương ứng với những gì nó nhận được. Đó là thái độ thật sự mang ơn và ý thức đền ơn sâu sắc. Về thái độ chịu ơn, là con vật, Bấc suy nghĩ như một con người. Nó phân biệt được đúng sai và mức độ khác nhau của lòng tốt. Trước lúc gặp Thoóc-tơn, với những cậu con trai ông Thẩm nó chỉ biết đến mối quan hệ “chỉ là chuyện làm ăn cùng hội cùng phường” với những cậu con trai ông Thẩm nó chỉ có trách nhiệm “ra oai hộ vệ”. Riêng với ông Thẩm, nó nhận được tình bạn “trịnh trọng và đường hoàng” có nghĩa là vẫn có gì như xa cách, vẫn không có gì nhiều hơn cái “ý thức về nghĩa vụ và vể lợi ích kinh doanh”. Chỉ tới khi gặp được Thoóc-tơn, nó mới lạ lùng và choáng ngợp trước một cái gì lớn lao chợt đến. Ấy là tình thương yêu.
Câu văn miêu tả tâm trạng của Bấc như một tiếng reo vui: “Tình yêu thương, một tình yêu thương thực sự và nồng nàn lần đầu tiên phát sinh ra bên trong nó”. Bấc ngẫm nghĩ để rồi xác nhận một cái gì được khơi lên trong cơ thể, trong tâm hồn từ trước vẫn ngủ yên của nó, một “tình thương yêu sôi nổi, nồng cháy, thương yêu đến tôn thờ, thương yêu đến cuồng nhiệt”. Giữa cuộc đời rộng lớn, Bấc đã gặp không ít người, nhưng chỉ với Thoóc-tơn, nó mới nhận ra mái nhà của nó, nó mới thực sự thương yêu. Thái độ của nó là trách nhiệm của kẻ đền ơn, lấy thương yêu đền đáp lại thương yêu (chứ không phải là công lao kéo xe trượt tuyết giúp chủ tìm vàng ở vùng Bắc cực). Và cái cách đền ơn – nghĩa là ngôn ngữ của lòng thương yêu của nó cũng đặc biệt, trước hết vẫn là của một con vật tình nghĩa với con người, biểu lộ tình thương yêu gần giống nhừ làm đau người ta. Bấc thường “há miệng ra cắn lấy bàn tay Thoóc-tơn rồi ép răng xuống mạnh đến nỗi vết răng hàn vào da thịt một lúc lâu”. Bởi nó hiểu cử chi cắn vờ ấy là “cử chỉ vuốt ve”. Tuy vậy, Bấc cũng là một con vật có bản lĩnh, nó biết tiết chế sự “vuốt ve”. Ở điểm này nó khác hẳn với cô ả Xơ-kít có thói quen “thọc cái mũi của nó vào dưới bàn tay” của chủ cho đến khi được vỗ vé, cũng khác với con Ních “thường chồm lên tì cái đầu to tướng của cu cậu lên đầu gối Thoóc-tơn”. Không táo tợn mà lặng lẽ, thâm trầm “xem xét” và theo dõi “từng biểu hiện thoáng qua, mọi cử động hoặc đổi thay trên nét mặt” Thoóc-tơn không phải để ngờ vực hay xét đoán vu vơ mà bằng niềm sung sướng thầm thì với đôi mắt “háo hức, tỉnh táo, ngước nhìn lên” thật là mãn nguyện. Chỉ cần thế thôi, thậm chí còn “xa hơn”, nó hiểu rằng cái gì sẽ đến. Giác quan đặc biệt từ sợi dây thần kinh mơ hồ mách bảo và nó đón nhận. Chỉ cần sức mạnh của ánh mắt Bấc không lời như thế, Thoóc-tơn sẽ quay đầu sang nhìn lại nó và đôi mắt anh “toả rạng tình cảm tự đáy lòng”, còn nó, đôi mắt nó cũng “ngời lên” như thế. Chỉ có điều, hạnh phúc đến với nó vì quá to lớn nên rất đỗi mong manh. Nó sợ đến một lúc nào đó, một ngày nào đó, giấc mơ đẹp đẽ kia chỉ còn là ảo ảnh, sẽ biến mất, sẽ tuột khỏi tầm tay. Thực tế thường phũ phàng, cay đắng. Một con vật như nó nào có giá trị gì, việc thay đổi chủ nuôi như người thay áo, diễn ra luôn “xoành xoạch” như nó đã biết từ khi nó có mặt ở phương Bắc lạnh giá tới nay. Một ám ảnh, một cơn ác mộng vụt đến nếu như số phận của nó như những cuộc gặp gỡ vô duyên trước đó với Pê-rôn, Phư-răng-xoa, hay anh chàng người lai Ê-cốt. Vì thế, bằng cách của nó, theo cách nghĩ của nó, Bấc phải tìm cách đẽ phòng, phải gìn giữ. Cả ban ngày, lẫn ban đêm. Đêm đêm, trong nỗi lo sợ mơ hồ, Bấc thường đang ngủ vùng dậy “trườn qua giá lạnh đến tận mép lều, đứng đấy, lắng nghe tiếng thở đều đều của chủ”. Chỉ có tiếng thở bình yên của chủ mới có thể làm cho thần kinh hoảng loạn của Bấc trở về với trạng thái thăng bằng.
3.Về nghệ thuật.
Bài văn là trích đoạn của một tiểu thuyết, nó chỉ là một mảnh nhỏ của đời sống hiện thực, một tâm trạng ở vào khoảnh khắc trong mối giao lưu giữa con vật với con người. Tính độc lập và trọn vẹn của đoạn văn chỉ là tương đối. Tuy vậy, ta vẫn nhận ra một tài năng trên nhiều phương diện. Đặc điểm bao trùm về mặt thể loại sáng tác là miêu tả kết hợp với chứng minh. Chứng minh ấy tạo nên cái mạch kết cấu toàn đoạn bắt đầu từ một nhận định mở đầu về tình yêu thương ở một con vật như con Bấc. Cái cách mà con Bấc chịu ơn và tìm cách đền ơn dường như rất dễ chia đoạn cũng bởi phương pháp chứng minh như vừa nói. Nhưng đi sâu vào các chi tiết về ý nghĩ và tâm trạng của con Bấc, ta lại gặp một thiên tài. Ngòi bút miêu tả tâm trạng của con vật thật tinh tế mang nhiều màu sắc trữ tình tạo được ấn tượng sâu xa của lòng cảm mến. Biện pháp tu từ ở trích đoạn trên đây chủ yếu là biện pháp so sánh. So sánh tình cảm ớ những cung bậc khác nhau (ví dụ, giữa Bấc với gia đình Thẩm phán và giữa nó với người chủ mới Thoóc-tơn, so sánh giữa con vật này với con vật khác (so sánh với Xơ-kít, Ních), nhất là so sánh giữa con vật với con người khi Bấc vùng dậy trên hai chân với đôi mắt long lên đầy phấn khích. Trông nó không khác một con người chỉ có điều âm thanh mà nó phát ra chưa thật rõ ràng, rành mạch. Câu văn trong trích đoạn hầu hết là câu văn dài, nhiều vế, tạo nên sự trùng điệp cho cảm nghĩ đa tầng. Dụng ý ấy không ngoài mục tiêu khắc hoạ tính cách một con vât rất gần người – con Bấc. Chẳng hạn “con người này đã cứu sống nó, đó là một lẽ, nhưng hơn thế nữa…”. “Những người khác chăm nom chó của họ… còn anh…”. “Bấc thấy không có gì vui sướng bằng…”. Những câu văn vừa gợi mở vừa trang trọng ấy gần với thơ ca, những vần thơ ca ngợi vẻ đẹp rất đáng ngợi ca. Tinh cảm cao quý geiữa con người với con vật và một hồi âm ít nhất là bằne như thế giữa con vật với con người.