Phân tích hình ảnh người lính trong hai tác phẩm Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Bài làm 1
Thơ ca bắt nguồn từ cuộc sống. Và có lẽ vì thế nên mỗi bài thơ đều mang đến sự đồng điệu giữa cảm xúc của người đọc, người nghe và tâm hồn thi sĩ của tác giả. Đặc biệt, những bài thơ gắn liền với hình ảnh người lính trong hai thời kì kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ lại càng khiến chúng ta thêm yêu cuộc sống chiến đấu gian khổ của dân tộc hơn. Tuy nhiên, hình ảnh người lính mỗi thời kì lại có những nét tương đồng và khác biệt, nên những bài thơ trong mỗi thời kì cũng khắc hoạ hình ảnh hai người lính khác nhau, mà tiêu biểu là bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu và “bài thơ tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật.
Sự khác biệt đầu tiên của họ là hoàn cảnh chiến đấu và xuất thân. Những vần thơ của bài “Đồng chí” được Chính Hữu dùng ngòi bút của mình viết nên vào tháng 5.1948. Đây là những năm tháng đầu tiên giặc Pháp quay trở lại xâm lược nước ta sau cách mạng tháng 8, nên cuộc sống vô cùng khó khăn vất vả, nhất là đối với hoàn cảnh thiếu thốn trăm bề ở chiến khu. Hiểu được nỗi đau của dân tộc, những người nông dân nghèo ở mọi nẻo đường đất nước đã bỏ lại sau lưng ruộng đồng, “bến nước gốc đa” để đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc.
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.”
Khác với Chính Hữu, Phạm Tiến Duật – một nhà thơ trẻ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước cho ra đời “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” vào tháng 5.1969. Thời gian này là cột mốc đánh dấu cuộc kháng chiến của quân và dân ta đang trong thời khốc liệt nhất. Anh giải phóng quân bước vào chiến trường khi tuổi đời còn rất trẻ. Họ ra đi khi vai còn vươn cánh phượng hồng, lòng còn phơi phới tuổi thanh xuân. Những anh hùng “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” ấy chẳng màng đến tương lai đang rộng mở đón chào, đôi chân họ bị níu chặt nơi mặt trận vì hai từ “yêu nước”.
Và vì hoàn cảnh, xuất thân khác nhau nên dẫn đến lí tưởng chiến đấu và ý thức giác ngộ cũng không tránh khỏi khác nhau. Trong bài “đồng chí”, nhận thức về chiến tranh của người lính còn đơn giản, chưa sâu sắc. Họ chỉ biết chiến đấu để thoát khỏi ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp, giành lại tự do, giành lại quyền làm người mà thôi. Trong tim họ, tình đồng chí đồng đội là món quà thiêng liêng, quý giá nhất mà họ nhận được trong suốt quãng thời gian dài cầm súng.
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
Đồng chí!”
Còn trong thời chống Mĩ, khái niệm về tinh thần yêu nước, thống nhất nước nhà đã khắc sâu vào tâm trí mỗi con người nơi chiến khu. Họ hiểu được điều ấy là vì giai đoạn này, khi miền Bắc đã đi vào công cuộc xây dựng CNXH thì miền Nam lại tiếp tục chịu đựng khó khăn bởi sự xâm lược của đế quốc Mĩ. Và “thống nhất” trở thành mục tiêu quan trọng hàng đầu của dân tộc ta. Trong trái tim chảy dòng máu đỏ của người Việt Nam, những người lính Trường Sơn mang trong mình tinh thần lạc quan, ý chí quyết thắng giải phóng miền Nam cùng tình đồng chí đã hình thành từ thời kháng chiến chống Pháp.
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Thật thiếu sót nếu như so sánh hai bài thơ mà không nói về vẻ đẹp của chúng. “Đồng chí” là hiện thân của vẻ đẹp giản dị, mộc mạc mà sâu sắc. Tình đồng chí được thể hiện thật tự nhiên hoà huyện trong tinh thần yêu nước mãnh liệt và chia sẻ giữa những người bạn với nhau. Còn “bài thơ về tiểu đội xe không kính” là sự khắc hoạ nổi bật của nét trẻ trung, tinh thần lạc quan, dũng cảm với tinh thần yêu thần yêu nước rừng rực cháy trong tim. Khát vọng và niềm tin của họ được gửi vào những chiếc xe không kính, thứ đưa họ vượt dãy Trường Sơn thẳng tiến vì miền Nam yêu dấu.
Thế nhưng, những người lính ấy, dù trong thời kì nào thì cũng có những nỗi nhớ không nguôi về quê nhà. Sống giữa chiến trường với tình đồng chí thiêng liêng, lòng những người nông dân bỗng quặng thắt mỗi khi hình ảnh mẹ già, vợ dại, con thơ hiện về. họ cảm thấy thật xót xa khi nghĩ đến ruộng đồng bỏ không cỏ dại, gian nhà trống vắng lại càng cô đơn.
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay,
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.”
Người lính chống Mĩ lại khác, nỗi nhớ của họ là sự vấn vươn nơi mái trường, là sự nuốc tiếc những trang vở còn tinh tươm. Họ buồn vì phải khép lại ước mơ rực rỡ trên hành trình đi đến tương lai. Nhưng họ hiểu rằng trách nhiệm với quê hương vẫn còn đó, nên họ quyết tâm chiến đấu hết mình. Họ biến con đường ra trận thành ngôi nhà chung gắn kết những trái tim vì tinh thần chống giặc ngoại xâm làm một.
“Bếp hoàng cầm ta dựng giữa trời,
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy.”
Bàn về nghệ thuật của hai bài thơ, ta không khó để thấy rằng chúng có nét khác biệt tương đối rõ ràng. Chính Hữu dùng bút pháp lãng mạn, xây dựng trong thơ của mình biểu tượng nên thơ của tình đồng chí: “đầu súng trăng treo”. Cảm hứng dâng trào lên rồi lại lắng đọng trong tâm hồn, hoá thành hình ảnh của chiến đấu và hoà bình, mang đến cho đời một bài thơ đầy chất trữ tình nhưng cũng không kém phần hấp dẫn. Ngược lại, Phạm Tiến Duật xây dựng hình ảnh người lính bằng những gì có thực trong cuộc sống chiến đấu gần gũi nhất: “xe không kính”. Hình ảnh thơ này thật sự quá độc đáo, khiến người đọc nhiều lần ngỡ ngàng vì sự phá cách và nét đơn giản nhưng cũng ngập tràn chất thơ của “bài thơ về tiểu đội xe không kính”.
Nhưng dù khác nhau từ hoàn cảnh, xuất thân cho đến lí tưởng chiến đấu, họ vẫn cùng chung một mục tiêu duy nhất: chiến đấu vì hoà bình, độc lập, tự do của tổ quốc. Họ lấy quyết tâm làm nền tảng, tinh thần làm cơ sở để vững bước đến tương lai được dựng nên bởi tình đồng chí. Dù biết rằng trong cuộc chiến một sống một còn ấy, đã có không ít những người phải hi sinh, nhưng đó lại là động lực lớn hơn chắp cánh cho ước mơ của những người chiến sĩ bay xa, bay cao. Hình tượng người lính ở hai thời kì đều chất chứa những phẩm chất cao đẹp của anh bộ đội cụ Hồ mà chúng ta cần phải trân trọng và yêu quý.
Nói tóm lại, người lính mãi mãi là biểu tượng tươi đẹp và sinh động nhất của chiến tranh, dù là thời kì chống Pháp hay chống Mĩ. Họ hiện lên quá đỗi gần gũi và thân thương, với nghĩa tình đồng đội ấm áp đã, đang và sẽ mãi mãi ấp ủ trong trái tim. Họ là những cây xương rồng rắn rỏi, cố gắng vươn lên giữa xa mạc mênh mông khô cằn. Họ là ngọn đèn thắp sáng con đường của quê hương chúng ta, đưa đất nước đi đến hoà bình và phát triển như ngày hôm nay.
Phân tích hình ảnh người lính trong hai tác phẩm Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Bài làm 2
Trong văn học Việt Nam hiện đại, hình ảnh người chiến sĩ cầm súng bảo vệ Tổ quốc có một vị trí hết sức quan trọng. Đó không chỉ là hình tượng nghệ thuật tiêu biểu trong nhiều tác phẩm mà còn là biểu tượng đẹp nhất của con người Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Phần lớn các tác giả đều có mặt ở những mũi nhọn của cuộc kháng chiến để kịp thời ghi lại một cách chân thực và sinh động hiện thực chiến đấu của chiến sĩ ta. Hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ trong những năm đầu đánh Pháp và người chiến sĩ Giải phóng quân miền Nam thời đánh Mĩ đã được phản ánh khá rõ nét với những vẻ đẹp khác nhau. Chúng ta có thể thấy rõ điều đó qua bài thơ Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.
Bài thơ Đồng chí được nhà thơ Chính Hữu sáng tác năm 1948, in trong tập Đầu súng trăng treo. Hình ảnh người nông dân cầm súng được miêu tả trong bài thơ với vẻ đẹp mộc mạc, bình dị nhưng cũng thật lãng mạn, bay bổng.
Là những nông dân quanh năm lam lũ với con trâu, mảnh ruộng, nghe theo tiếng gọi cứu nước, các anh đã tình nguyện từ giã quê hương đi chiến đấu. Phần đông chưa biết chữ, vào quân đội mới bắt đầu học i tờ nhưng họ lại rất giàu lòng yêu nước. Họ hiểu đơn giản mà rất đúng đắn rằng: chiến đấu để bảo vệ tự do cho dân tộc cũng là bảo vệ mảnh vườn, thửa ruộng, mái ấm gia đình. Quyền sống thiết thực của mỗi con người đã thôi thúc họ hành động.
Cuộc đời chiến sĩ gian nan, vất vả, vào sống ra chết đã khẳng định phẩm chất cao đẹp của những người nông dân mặc áo lính. Từ bốn phương trời, không hẹn mà nên, họ gặp nhau, trở thành đồng đội, đồng chí của nhau.
Sinh ra và lớn lên từ những vùng quê nghèo khổ, cơ cực, các anh mang bản chất hồn nhiên, chất phác của người lao động. Đi chiến đấu chống xâm lăng, các anh để lại sau lưng lũy tre, mảnh ruộng quen thuộc và mái tranh nghèo cùng với những người thân. Ruộng nương anh gửi bạn thân cày, Gian nhà không mặc kệ gió lung lay. Mặc kệ là lối nói tự nhiên, mộc mạc của người nông dân, bày tỏ thái độ dứt khoát trọng việc nước hơn việc nhà.
Dứt khoát thế nhưng không khỏi nhớ tới quê hương, làng mạc, gia đình. Nỗi nhớ của các chiến sĩ đơn giản và cụ thể: ruộng nương, giếng nước, gốc đa, mái tranh… gắn liền với nơi chôn nhau cắt rốn là những miền quê nghèo khó.
Trong môi trường quân đội, các anh gắn bó, chiạ sẻ vui buồn, gian khổ, sông chết với nhau. Còn gì chân thành hơn, tin tưởng hơn cái xiêt tay của đồng đội truyền hơi ấm và sức mạnh cho nhau lúc gian nan, nguy hiểm?!
Buổi đầu kháng chiến, quân và dân ta đánh giặc gần như với hai bàn tay trắng. Bộ đội có gì mặc nấy, có gì dùng nấy, đâu được trang bị đầy đủ như bây giờ. Đẹp biết mấy là nụ cười lạc quan của người chiến sĩ. Cười trong buốt giá là thái độ coi thường khó khăn, gian khổ, là niềm tin vững chắc vàọ ngày mai chiến thắng.
Bài thơ kết thúc bằng một hình ảnh có ý nghĩa tượng trưng rất sâu sắc:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Đó là hình ảnh đơn sơ mà tuyệt vời thi vị về anh Vệ quốc thời kì đầu kháng chiến, đồng thời cũng là lời ngợi ca tình đồng chí thiêng liêng giữa những con người đang kề vai sát cánh bảo vệ Tổ quốc, đem lại cuộc sống thanh bình cho dân tộc.
Nếu bài thơ Đồng chí là hình ảnh của người lính Cụ Hồ trong kháng chiến chống Pháp thì Bài thơ về tiểu đội xe không kính là hình ảnh của người lính Giải phóng trong kháng chiến chống Mĩ gian khổ và quyết liệt.
Người chiến sĩ lái xe trên đường Trường Sơn vô cùng dũng cảm, có sức chịu đựng gian khổ tuyệt vời nhưng cũng tràn đầy tinh thần lạc quan cách mạng. Xe lăn bánh cũng có nghĩa là người chiến sĩ lái xe bắt đầu bước vào trận đánh. Sự sống và cái chết cách nhau chỉ trong gang tấc nhưng họ vẫn giữ vững tư thế hiên ngang, tự tin hiếm có.
Đối đầu với máy bay giặc Mĩ, các chiến sĩ lái xe của ta thường ở thế bị động. Vậy dựa vào đâu mà họ ra trận với phong thái ung dung như vậy? Chỗ dựa tinh thần lớn lao nhất chính là niềm tin tất thắng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, là tình cảm tất cả vì miền Nam ruột thịt, là chân lí “Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt dân tộc khảng khái tuyên ngôn. Họ hiểu rằng chiến trường và đồng đội đang cần vũ khí, lương thực, thuốc men… để đủ sức đánh trả quân thù những đòn đích đáng. Chủ quyền độc lập, tự do thiêng liêng của Tổ quốc, của dân tộc thôi thúc họ hành động.
Ai đã từng một lần đặt chân đến đường Trường Sơn vào thời kì chống Mĩ mới thấu hiểu những gian khổ, hiểm nguy của người lính lái xe. Đường Trường Sơn gập ghềnh hiểm trở. Mùa mưa, mưa như thác đổ. Mùa khô, xe chạy bụi bay mù trời. Ngày nào trời quang mây tạnh thì bom đạn giặc Mĩ liên tục trút xuống những đoàn xe nối nhau ra mặt trận. Xe có kính người lái xe đã vất vả, xe không có kính lại càng vất vả biết chừng nào!
Đoàn xe chạy tạo nên những cơn lốc bụi mù trời. Xe không kính, gió lùa mạnh vào cabin khiến người lái xe tưởng như nhìn thấy gió và bụi. Gió làm cay mắt, chảy nước mắt mà lại nói là gió vào xoa mắt đắng thì quả là độc đáo và hóm hỉnh. Dường như các chàng lái xe ngạo nghễ thách thức cái khí hậu khắc nghiệt của rừng núi Trường Sơn. Không còn lớp kính ngăn cách, con người và thiên nhiên như gần gũi hơn, do đó mà tác động của cảnh vật đối với sự cảm nhận của con người tăng lên gấp bội; sao trời ban đêm, cánh chim ban ngày như sa, như ùa vào buồng lái. Xe lao lên phía trước, con đường lùi lại phía sau, người lái xe có cảm giác nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim. Câu thơ chứa đựng một ý nghĩa sâu xa: con đường vào chiến trường miền Nam chính là đích đến của trái tim người lính.
Mỗi vất vả, gian nan đều được nhà thơ Phạm Tiến Duật miêu tả bằng những hình ảnh chân thực, giản dị nhưng để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.
Gian khổ tột cùng nhưng hào hùng cũng tột bực. Đó là chất lạc quan thanh thản của một dân tộc, chất dũng cảm thuộc về bản chất con người Việt Nam. Các chiến sĩ lái xe chấp nhận tất cả với thái độ vui vẻ, phớt đời, pha chút ngang tàng, rất lính.
Đoạn kết của bài thơ thật đẹp. Chất hiện thực nghiệt ngã và lãng mạn bay bổng hòa quyện với nhau:
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước.
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước,
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Càng gần thắng lợi, càng nhiều gian nan, đó là quy luật. Mức độ chiến tranh ác liệt in dấu rõ ràng trên những chiếc xe vận tải quân sự: không kính, không đèn, không mui, thùng xe đầy vết xước do bom đạn giặc. Nhưng xe vẫn chạy vào hướng miền Nam – tiền tuyến lớn đang thôi thúc, vẫy gọi bởi trong xe có một trái tim nóng bỏng tình yêu và trách nhiệm công dân trước vận mệnh của đất nước, dân tộc. Hình ảnh trái tim trong câu thơ cuối là một hoán dụ nghệ thuật rất có ý nghĩa, đã tôn vinh tầm vóc những người chiến sĩ lái xe anh hùng và nâng cao giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ.
Tinh thần dũng cảm, thái độ thanh thản, lạc quan của những chiến sĩ lái xe trong mưa bom, bão đạn xứng đáng tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng của tuổi trẻ Việt Nam, của dân tộc Việt Nam thời đánh Mĩ.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một bài thơ tự sự nhưng đậm chất trữ tình cách mạng. Nhà thơ đã khắc hoạ hình ảnh những chiến sĩ lái xe bằng tấm lòng cảm phục và mến thương sâu sắc. Họ là những con người tự nguyện dấn thân, vui trong gian khổ, chấp nhận hi sinh. Ngôn ngữ thơ giản dị, tự nhiên nhưng giàu sức gợi cảm, hình ảnh sáng tạo độc đáo, nhịp thơ tự do, phóng khoáng… Tất cả những yếu tố đó làm nên cái hay, cái đẹp của bài thơ. Song điều quý giá nhất vẫn là cái tình, là sự hóa thân của tác giả vào nhân vật để tìm tòi, phát hiện ra những hạt ngọc long lanh trong tâm hồn thế hệ trẻ anh hùng của một dân tộc anh hùng.
Hai bài thơ của hai nhà thơ chiến sĩ được sáng tác trong hai hoàn cảnh, thời điểm khác nhau nhưng cùng chung bút pháp lãng mạn và hiện thực và đều nhằm mục đích ca ngợi vẻ đẹp của người chiến sĩ trong chiến tranh giữ nước.
Xuyên suốt mỗi bài thơ là cái tình, là trách nhiệm công dân của người chiến sĩ trước vận mệnh đất nước. Tự nguyện dấn thân, chấp nhận gian khổ, hi sinh, trước sau giữ vững chí khí anh hùng và quyết tâm chiến đấu… đó là những nét đẹp nổi bật của hình tượng người chiến sĩ trong thơ Chính Hữu và Phạm Tiến Duật.
Phân tích hình ảnh người lính trong hai tác phẩm Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Bài làm 3
Là những nhà thơ quân đội trưởng thành trong những cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Chính Hữu và Phạm Tiến Duật từng sống, trải nghiệm và thấm thía đời sống của người lính trên chiến trường. Trên đôi bàn tay của hai nhà thơ không chỉ vững vàng những cây súng đánh giặc mà còn từng bung nở cho đời những vần thơ diệu kì về người lính. Hai trong số những áng thơ ấy là Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Cùng khắc họa hình ảnh người lính trong lực lượng quân đội nhân dân Việt Nam nhưng bên cạnh những điểm chung vốn dễ nhận thấy, ở hai bài thơ, mỗi bài lại có những nét đẹp riêng.
Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu ra đời năm 1948, những năm tháng đầu tiên của cuộc kháng chiến chống Pháp đầy vất vả, chính quyền ta vừa thành lập còn non trẻ. Những người lính của “Đồng chí” là những người lính chống Pháp, họ đến với kháng chiến từ màu áo nâu của người nông dân, từ cái nghèo khó của những miền quê lam lũ:
“Quê hương anh nựớc mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”…
Còn Bài thơ vê tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật ra đời năm 1969, thời điểm cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đang vào hồi ác liệt. Những người lính thời kì này còn rất trẻ. Họ phần lớn vừa rời ghế nhà trường, tâm hồn còn phơi phới tuổi xuân. Đó là những con người:
“Xẻ dọc Trường Sơn đi đánh Mĩ
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”.
Hoàn cảnh, điều kiện khác nhau như vậy tất yếu dẫn đến sự khác nhau về ý thức giác ngộ cách mạng của những người lính ở hai bài thơ. Nhận thức về chiến tranh của những người lính chống Pháp còn đơn giản, chưa sâu sắc như .thời kì kháng chiến chống Mĩ. Trong “Đồng chí”, tình cảm thiêng liêng nhất được nhắc tới là tình đồng chí, đồng đội. Trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” mới thấy xuất hiện ý niệm về ý chí, tinh thần yêu nước:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cẩn trong xe có một trái tim”.
Sống giữa chiến trường với tình đồng đội thiêng liêng, người lính chống Pháp nhớ về gia đình với mẹ già, vợ dại, con thơ. Người lính kháng Mĩ thì đã khác. Họ hiểu rằng kháng chiến là gian khổ và còn trường kì nữa. Vậy nên xe hàng cùng con đường ra mặt trận đã trở thành ngôi nhà chung và những người đồng đội đã trở thành gia đình ruột thịt:
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”.
Và điều khác nhau cơ bản giữa hai thi phẩm chính là bút pháp thơ của hai tác giả. Chính Hữu dùng bút pháp hiện thực – lãng mạn dựng lên hình ảnh những người lính thời kì đầu của cuộc kháng chiến với nhiều khó khăn thiếu thốn:
“Áo anh rách vai quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá chân không giày”
Cảm hứng lãng mạn được lắng đọng trong cảm xúc về tình đồng chí thiêng liêng: “Đồng chí!” cùng những hình ảnh thơ giàu sức gợi “đẩu súng trăng treo”. Bài thơ “Bài thơ về tiểu dội xe không kính” lại được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn – hiện thực. Cái khó khăn thiếu thốn không bị lảng tránh:
“Không có kính rồi xe không có đèn,
Không có mui xe thùng xe có xước”.
Nhưng vượt lên trên tất cả vẫn là sự ngang tàng, tinh nghịch của những người lính trẻ lạc quan yêu đời:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng”
“ừ thì gió bụi”
“ừ thì ướt áo”,…
Có thể nói, trong “Đồng chí” của Chính Hữu, nhà thơ đã dựng lên hình ảnh người lính với tình đồng đội thiêng liêng chia sẻ với nhau những khó khăn, cực nhọc của một cuộc sống kháng chiến gian nan, thiếu thốn. Bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật lại khắc họa tuổi trẻ trẻ trung, yêu đời, yêu sống tinh nghịch và đầy ước mơ, lí tưởng của những người lính chống Mĩ.
Tuy có những sự khác nhau do hoàn cảnh lịch sử chi phối như vậy song những người lính trong hai bài thơ vẫn mang những đặc điểm chung đáng quý của người lính quân đội nhân dân. Đó là tấm lòng yêu nước, yêu đồng chí, đồng đội.
Vì tiếng gọi của non sông tất cả đã bỏ lại phía sau những “bến nước gốc đa”, những con phố, căn nhà và cả những người thân yêu nhất. Trong điều kiện chiến đấu vô cùng gian khổ thiếu thốn, thì tinh thần chiến đấu của những người lính lại bùng lên mạnh mẽ, sục sôi khí thế. Họ không nề nguy hiểm, khó khăn, vẫn vững lòng cầm chắc tay súng để bảo vệ quê hương, đất nước:
“Súng bên súng đầu sát bên đầu”
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”.
Họ cũng sát cùng bên nhau, bên những người đồng đội để cùng chiến đấu dũng cảm. Nếu trong “Đồng chí” là:
“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
Thì trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính hình ảnh đó đã trở nên thân quen:
“Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”
Không kể thiếu thốn, khó khăn, họ vẫn chấp nhận, vẫn vui vẻ lạc quan, yêu đời hơn. Cái bắt tay ấy là cả một tình đồng đội thiêng liêng, họ truyền cho nhau niềm tin chiến thắng, tình yêu và lòng dũng cảm ấy. Sống và chết, dường như trong tim mỗi người lính chiến đấu không hề có khái niệm ấy.
Dù có những điểm giống và khác nhau rõ rệt nhưng điều đó càng khiến những người lính cụ Hồ hiện lên qua nhiều màu vẻ, sinh động và gần gũi. Điều đó trước hết giúp người đọc càng hiểu rõ hơn về những người lính. Hình ảnh của họ hiện lên thật đẹp đẽ, họ chính là biểu tượng, là niềm tin, khát vọng của nhân dân gửi gắm nơi họ. Ở các anh, người đọc nhận thấy một ánh sáng lí tưởng cao đẹp và thiêng liêng vô cùng. Không chỉ vậy, những nét khác biệt còn thể hiện từng phong cách riêng của mỗi tác giả trong phương thức thể hiện. Điều đó làm giàu, làm đẹp thêm cho vườn hoa nghệ thuật nước nhà.
Phân tích hình ảnh người lính trong hai tác phẩm Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Bài làm 4
Chiến tranh đã qua đi, nhưng dư âm của nó vẫn còn đọng lại trong tâm trí mỗi người dân Việt Nam yêu nước. Đứng ở thời điểm hôm nay, ngoảnh lại nhìn quá khứ, một chặng đường đầy gian lao và hy sinh nhưng hết sức vẻ vang của dân tộc, mỗi chúng ta không khỏi bâng khuông đến tự hào về bao thế hệ cha anh, những con nguời đã làm nên lịch sử chói ngời bằng những chiến công vĩ đại.
Thực dân Pháp xâm lược, đất nước chìm trong máu lửa đau thương. Bác Hồ, sau ba mươi năm buôn ba hải ngoại ở nước ngoài đề tìm đường cứu nước, Bác đã đem lại ánh sáng và niềm tin cho dân tộc.
Thực dân Pháp, kẻ thù không đội trời chung, Bác ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến – 1946. Hưởng ứng lời Bác gọi, lời của non sông, các anh chị lớp trước, lớp sau trùng trùng ra trận:
“ Những buổi vui sao cả nước lên đường
Xao xuyến bờ tre từng hồi trống giục
Xóm dưới làng trên con trai con gái
Xôi nắm cơm đùm ríu rít theo nhau” .
Đúng là một đất nước Việt Nam anh hùng mà “ Mẹ anh hùng đẻ con Thánh Gióng – mong con mau lớn để tòng quân” thì mới ánh lên những vần thơ kiêu hãnh và bức chân dung về người cầm súng trùng điệp nối nhau “ Suất bốn nghìn năm không nghỉ” diệu kì đến như vậy:
“ Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”.
Họ ra trận, chiến đấu nhưng thiếu tư thế hiên ngang, đàng hoàng và không hăng hái như anh vệ quốc trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu. Bài thơ miêu tả hai nhân vật “ Anh” và “ tôi” thành một đôi, nhưng là “ đôi người xa lạ”. Từ “ xa lạ” trở thành “ quen nhau”. “ những anh” “ những tôi “ nhoà đi sau những khẩu súng, những mái đầu, những tấm chắn, và những đôi tri kỉ , để rồi cuối cùng nổi lên, chỉ đọng lại, chỉ kết tinh trong một đồng chí mà thôi.
Vẻ đẹp ấn tượng nhất về người lính chống Pháp, trước hết là nguồn gốc xuất thân: người lính nông dân rất thực trong cuộc sống còn nhiều vất vả lo toan.Từ cuộc đời thực họ bước vào thơ ca, trong cái môi trường bình dị thường thấy ở các làng quê còn những đói nghèo lam lũ:
“ Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.
Hôm qua là nông dân, hôm nay đã là chiến sỹ:
“ Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”.
Tác giả tả thực về cuộc sống quân ngũ của người lính gian lao thiếu thốn. Từ cuộc sống thực bước vào trang thơ và toả sáng một vẻ đẹp mới – vẻ đẹp truyền thống thời đại. Đó là vẻ đẹp của tình đồng chí, tình đồng đội gắn bó với tình giai cấp của người lính:
“ Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày”.
Đánh giặc giữ nước, vốn là truyền thống lâu đời của dân tộc, nhưng những người lính hôm nay ra đi đánh giặc lại đến với nhau trong một tình cảm thật mới mẻ, in rõ dấu ấn của thời đại. Tình đồng chí thiêng liêng mà cội nguồn sâu xa là tình giai cấp gắn bó:
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Từ xa lạ đến quen nhau, đó là sợi dây tình cảm giai cấp đã nối kết họ lại với nhau và tình giai cấp đã phát triển nâng lên thành tình đồng chí khi lí tưởng đánh giặc giữ nước rực sáng trong tâm hồn họ:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”.
Chữ Đồng chí đứng riêng thành một câu thơ như nhấn mạnh cô đúc, nén lại bao thiêng liêng cao cả trong cái tình cảm mới mẻ này. Đồng chí là từ giai cấp mà lên, từ lí tưởng mà có. Đồng chí là soi vào nhau, anh hiểu tôi, hiểu đến nỗi lòng sâu kín của anh. Đồng chí là đồng cảm sâu sắc cùng nhau chia sẻ.
“Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh”.
Và
“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
Bài thơ phản ánh đời sống nội tâm, tình cảm người lính, vẻ đẹp của tình đồng chí là vẻ đẹp của đời sống tâm hồn người chiến sỹ mà nơi phát ra vừng sáng lung linh nhất là mối tình đồng đội đồng chí hoà quyện với tình giai cấp. Hình ảnh “ Đầu súng trăng treo” khép lại bài thơ, nâng vẻ đẹp người lính lên đến đỉnh cao khái quát trong sự hài hoà giữa hiện thực và lãng mạn, đồng thời mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc.
Giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước là nhiệm vụ trách nhiệm của người chiến sỹ. Đảng đã trao cho anh nhiệm vụ thiêng liêng đó. Vì tổ quốc, vì nhân dân, anh lên đường cầm súng chiến đấu giết giặc. Anh vệ quốc quân, anh bộ đội cụ Hồ đắp nổi bằng những vần thơ tươi thắm nhất, sôi nổi nhất. Bởi anh là Tổ quốc, là Hôm nay và Mai sau. Anh là tiên phong giữa những đoàn quân trùng trùng ra trận, giữa chiến trường lửa đạn. Anh là con người đẹp nhất của thời đại, của thơ ca. Anh mang trong mình lí tưởng cao đẹp: giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Đó là ước mơ của ngàn đời ông cha để lại:
“Vì độc lập, tự do, núi sông hùng vĩ
Vì thiêng liêng giá trị con người
Vì muôn đời hoa lá xanh tươi”
Hình tượng anh vệ quốc được nâng lên thành một tầng cao mới khi anh lên đường, khẩu súng trên vai, thì tình yêu mẹ, yêu quê hương lại thiêng liêng hơn bao giờ hết. Anh vệ quốc quân có một nhận thức hết sức sâu sắc:
“Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc nếu cầu ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi con sông”.
Tình yêu quê hương, đất nước đã biến thành máu thịt, anh sẵn sàng hy sinh cho Tổ quốc, sẵn sàng hiến dâng cuộc đời cho độc lập tự do. Tình yêu ấy trở thành lẽ sống đẹp đẽ của cả một thế hệ con người Việt Nam thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước:
“Ta sẵn sàng xé trái tim ta
Cho Tổ quốc và cho tất cả”.
Trải qua hai cuộc kháng chiến vĩ đại chống Pháp, chống Mỹ của dân tộc, anh vệ quốc xuất hiện từ những ngày đầu của cuộc chiến đấu cho đến ngày “Toàn thắng ắt về ta”, đó là những chàng Thạch Sanh của thời đại Hồ Chí Minh đánh giặc bằng tất cả những gì vốn có: Từ mũi chông tre, tầm vông, giáo mác, đến chiếc xe không kính, bếp Hoàng Cầm…Hình ảnh anh giải
phóng quân chống Mỹ kế thừa nét đẹp của anh vệ quốc chống Pháp: giản dị, mộc mạc, mà anh hùng dũng cảm. Vẻ đẹp ngời sáng của chàng trai đánh Mỹ là tư thế hiên ngang coi thường gian nguy. Thái độ ung dung bình thản trong mọi thiếu thốn.
Anh bộ đội cụ Hồ trong thơ Phạm Tiến Duật hiện lên thật độc đáo, “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính” viết -1969, đây là thời kỳ gian khổ và hy sinh trên chiến trường Nam Bộ. Bài thơ mang đậm chất lính rất đậm đà, đó là những anh lính trẻ của thời chống Mỹ có học thức, có bản lĩnh chiến đấu, có cuộc sống nội tâm, ta gặp trong bài những câu thơ ngang tàn thanh thản:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”
Và
Không có kính, ừ thì có bụi
Không có kính, ừ thì ứơt áo”
Người chiến sỹ lái xe phải can trường lắm, tự tin và có sức mạnh thì mới có được thái độ ngạo nghễ coi thường gian lao đến như vậy. Người đọc thú vị những câu thơ dí dỏm, tinh nghịch đầy sức trẻ của những chàng trai “ Xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước”:
“ Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”
Câu thơ ngồn ngộn chất sống hiện thực ở chiến trường. Mái đầu bụi trắng, bộ mặt lấm lem và tiếng cười ha ha sảng khoái. Đằng sau dòng chữ bông đùa này là bản lĩnh chiến đấu vững vàng của họ. Hình ảnh đối lập giữa “ Như người già” và tiếng cười “ha ha ” là sự hồn nhiên yêu đời, trẻ trung đến lạ lùng. Hình ảnh “ Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”, đó là tình đồng đội của những con người chiến thắng. “ Chung bắt đũa nghĩa là gia đình đấy”, trong phút giây ngắn ngủi ta càng tháy sự gắn bó tự nhiên mà cao đẹp của tình đồng đội và tình đồng chí đã ngân lên câu hát nâng bước chân người lính đi tiếp những chặng đường mới:
“Lại đi, lại đi, trời xanh thêm”.
Nét đẹp bao trùm nổi bật của người lính chiến lái xe trong bài là sự ung dung thanh thản tuyệt vời trong một tư thế hiên ngang bất chấp mọi khó khăn thử thách:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng”.
Những câu thơ như bật ra từ trái tim người lái xe đang ngồi sau tay lái. Xe không kính mà tâm thế vẫn ung dung bình thản, câu thơ “ thấy sao trời và đột ngột cánh chim” vừa rất thực lại thoáng chút nghệ sỹ. Cả đoạn thơ như ào ra từ cuộc sống thực để nổi lên gương mặt tinh thần cao đẹp của người chiến sỹ lái xe:
“Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe xây xước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”.
Không có gì cả nhưng lại có tất cả. Trái tim là sức mạnh của người lính, đó là sức mạnh của con người đã chiến thắng bom đạn kẻ thù. Trái tim yêu thương, trái tim can trường, trái tim đã trở thành nhãn tự của bài thơ, cô đúc ý thơ toàn bài, hội tụ vẻ đẹp của người lính và để lại dư vang sâu lắng trong lòng người đọc. Bài thơ hay vì thi sỹ mang một trái tim người lính.
Hình ảnh anh giải phóng quân đánh Mỹ vừa kế thừa vẻ đẹp phẩm chất của anh vệ q ốc quân chống Pháp, vừa phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước và anh hùng thành vẻ đẹp truyền thống cách mạng Việt Nam hội tụ hơn bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước. Nét đẹp ngờisáng của người lính chiến lái xe trong bài thơ là hiện thân của anh giải phóng quân thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc hiện lên bằng những phẩm chất riêng mới: Có học thức, trẻ trung hơn, vui nhộn, hóm hỉnh pha chút ngang tàn, bất chấp gian khổ, coi thường gian nguy.
Tình yêu Tổ quốc tiếp sức nâng đỡ anh lên, tình yêu đem đến cho người chiến sỹ một niềm tin sáng chói giúp cho anh có đầy đủ sức mạnh để chiến thắng kẻ thù. Hình ảnh anh mang tầm vóc mới, tầm vóc vũ trụ:
“Mái chèo một chiếc xuồng con
Mà sông nước dậy sống cồn đại dương”
Hình tượng người lính dù là thời kì chống Pháp hay chống Mỹ, dù có thể có những nét khác nhau nào đó nhưng họ đều mang những phẩm chất cao đẹp của anh bộ đội cụ Hồ từ nhân dân mà ra, từ xa lạ mà lên, tình đồng chí đồng đội hoà quyện với tình giai cấp khi lý tưởng chiến đấu rực sáng trong tâm hồn. Đất nước trong những năm tháng chống Pháp, chống Mỹ hiện lên thật đẹp, thật hào hùng đồng thời cùng hài hoà với sự phát triển của hình tượng anh bộ đội cụ Hồ từ anh vệ quốc quân đến anh giải phóng quân qua hai bài thơ Đồng chí của Chính Hữu và bài Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.
Từ khóa tìm kiếm nhiều:
- Phân tích hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ trong hai tác phẩm Đồng Chí và bài thơ về tuổi được