Phân tích nhân vật Thúy Kiều trong Truyện Kiều – Bài làm 1
Nguyễn Du – nhà thơ lớn của nước ta cuối thế kỉ XVIII, bằng tâm huyết và tài năng trác tuyệt của mình đã xây dựng thành công một hình tượng nhân vật bất hủ là Thúy Kiều – người con gái tài sắc vẹn toàn Thúy Kiều là người con chí hiếu, là người tình chung thủy, là người trọn nhân nghĩa và giàu đức hi sinh. Mặc dù cuộc đời nàng chìm ngập trong nỗi bất hạnh, đau thương, nhưng nàng vần cố gắng vươn lên và phẩm hạnh của nàng luôn tỏa sáng.
Trước hết, Kiều là một người con hiếu thảo. Trước tai họa bất ngờ của gia đình, cha bị vu oan, bị tra tấn dã man; nhà cửa bị lũ sai nha đầu trâu mặt ngựa cướp phá tan hoang, trái tim Kiều đau đớn như bị xé ra từng mảnh: Rường cao rứt ngược dẩy oan, Dẫu là đá cũng nát gan lọ người. Bị bọn quan lại tham nhũng đẩy vào thế cùng: Có ba trăm lạng việc này mới xong; không còn cách nào khác, Kiều đã đi đến quyết định hành động ngoài dự tính của mọi người, ngoài dự tính của chính bản thân nàng: bán mình chuộc cha. Cơ sở của hành động cao đẹp ấy chính là lòng hiếu thảo. Kiều đã gạt chữ tình sang một bên để đáp đền chữ hiếu, mặc dù mối tình đầu đời trong trắng, thiêng liêng với Kim Trọng được coi là lẽ sống của đời nàng.
Suốt mười lăm năm lưu lạc nơi đất khách quê người: Khi Vô Tích, khi Lâm Tri, Nơi thì lừa đảo, nơi thì xót thương; lênh đênh chìm nổi: Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần, nhưng không lúc nào Kiều nguôi nhớ đến gia đình và cha mẹ.
Lúc ở lầu Ngưng Bích, xa nhà chưa bao lâu mà nàng tưởng như đã trải qua biết mấy nắng mưa. Nàng hình dung cha mẹ tựa cửa hôm mai, mỏi mòn trông đợi, mà mình thì xa xôi cách biệt, hỏi ai là người chăm sóc sớm tối?
Đến lúc buộc phải chấp nhận làm kĩ nữ ở lầu xanh, Kiều lại cùng thương cha nhớ mẹ. Nỗi nhớ ấy đã thấm đẫm trong nỗi thương thân khiến lời than thở của Kiều nghe muôn rơi nước mắt: Dặm nghìn nước thẳm non xa, Nghĩ đâu thân phận con ra thế này! Nàng đau khổ cho mình và cũng đau khổ cho cha mẹ. Lúc bán mình, nàng cứ nghĩ rằng mình chỉ đem thân làm thiếp, làm vợ lẽ người ta chứ đâu đến nỗi ô nhục như vậy!
Nàng ân hận bởi bổn phận làm con không vẹn. Dù rằng ở nhà đã có hai em, nhưng chăm sóc cha mẹ là bồn phận của người con gái lớn trong nhà. Tấm lòng hiếu thảo của một người con như thế quý biết bao, thương biết bao!
Lúc khuyên cha, Kiều đã dùng đến mấy lời khuyên về đạo làm con của Nho gia nhưng chữ hiếu của Kiều không phải chỉ là chữ hiếu phục tòng. Nó đơn giản nhưng hồn nhiên và sâu thẳm bởi nó là chữ hiếu của tình thương, của trái tim Thúy Kiều.
Bởi với Kim Trọng, Thúy Kiều là một người tình chung thủy. Tình yêu đầu đời của nàng thật trong sáng, mãnh liệt. Nó khiến nàng dám vượt qua những ràng buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến để đến với người yêu: Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình; cùng chàng Kim tình tự, trao nhau kỉ vật làm tin và thề nguyền gắn bó trăm năm:
Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai mặt một lời song song.
Bỗng dưng sóng gió cuộc đời nổi lên dập dồn trong khoảnh khắc: gia biến, cướp ngày, quan tham, bán mình… Đến đêm, Kiều mới nghĩ đến bản thân: tình mình, tình người, cảnh mình, cảnh người. Nàng thức thâu đêm và khóc. Nghĩ tới sáng mai mình sẽ thuộc về tay kẻ khác, Kiều cảm thấy như chính mình là thủ phạm gây ra nỗi bất hạnh ghê gớm cho chàng Kim. Nàng tự trách: Vì ta khăng khít cho người dở dang. Không chỉ dở dang mà còn tan cửa nát nhà. Nghe qua tưởng như vô lí. Sao lại vì ta? Vì cả người nữa, vì người trước chứ! Nhưng Kiều cứ nghĩ như thế bởi Kiều chỉ nghĩ đến người yêu, thương người yêu, đau trước cái đau của người yêu. Còn mình, Kiều quên hết, nếu có nghĩ đến thì cũng cam chịu: Phận dầu, dầu vậy cũng dầu…
Không chỉ thương, chỉ đau mà Kiều còn lo lắng nữa. Duyên mình đã lở, còn cái dở dang của người yêu thì sao? Đắn đo, suy tính trước sau, nàng thấy chỉ có một cách có thể cứu vãn phần nào là Thuý Vân sẽ thay mình đền đáp tình chàng:
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tinh máu mủ thay lời nước non.
Duyên có thể trao, nhưng tình lâm sao trao được ? Nó như một món nợ. Mà nợ tình thì làm sao trả được? Sau khi cậy em, lạy em ! hình dung ra cả lúc ngậm cười chín suối biết ơn em, đến lúc trao các kỉ vật thiêng liêng, cầu chúc hạnh phúc cho em thì Kiều không còn tỉnh táo nữa. Nàng trở lại hoàn toàn bản chất con người mình, cảm nhận đầy đủ nỗi đau của mình và thốt lên thống thiết:
Ôi Kim lang, hời Kim lang !
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
Lí trí buộc nàng phải dứt tình với chàng Kim, nhưng trái tim nàng thì không thế.
Từ đó, bão tố cuộc đời vùi dập nàng đến thảm thương: Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần. Bị dìm xuống tận bùn đen nhơ nhớp nhưng nàng vẫn không nguôi nhớ đến mối tình đầu, nhớ tới chàng Kim. Nhớ đêm: Vầng trăng vằng vặc giữa trời, nhớ lời thề son sắt nguyện ước ba sinh. Nhớ tình đã cũ nhưng nghĩa còn vương:
Tiếc thay chút nghĩa cũ càng,
Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng.
Sau mười lăm năm, gặp lại chàng Kim, hỏi còn niềm vui nào lớn hơn đối với Kiều?! Tái hợp, duyên cũ về với tình xưa là chuyện hiển nhiên, ấy vậy nhưng cũng bởi trân trọng tình mình, tình người mà Kiều đã: Đem tình cầm sắt đổi ra cầm kì, từ chối tất cả mọi lời khuyên của chàng Kim và của gia đình.
Trước sau, Kiều vẫn chấp nhận thiệt thòi, hi sinh hạnh phúc của mình cho người khác. Lòng thủy chung, đức vị tha cao cả ấy của Kiều thật đáng ngợi ca muôn đời.
Trong gia đình và xã hội, Kiều đều tỏ ra là người trọng nhân, trọng nghĩa. Trên bước đường đời phiêu bạt, kẻ áp bức đọa đày nàng rất nhiều mà người xót thương, giúp đỡ cùng không ít, Kiều đều khắc cốt, ghi tâm. Đến lúc báo ân báo oán, Kiều trả ân trước, báo thù sau. Thường tình, người ta ghi sâu oán hơn ân nên trả oán trước trả ân. Nhưng Kiều là con người trung hậu, vị tha, nghĩ đến người nhiều hơn nghĩ đến mình nên nàng trọng ân hơn oán.
Thúc Sinh, mụ quản gia, Kiều Nhi, Giác Duyên… đều dược nàng đền ơn rất hậu và đánh giá rất cao hành động tốt đẹp của họ trước đây đối với nàng:
Ngàn vàng gợi chút lễ thường,
Mà tòng Phiếu Mẫu mấy vàng cho cân!
Việc báo ân của Kiều và tấm lòng nhân nghĩa của nàng dễ mấy ai sánh kịp. Người xưa nói: ơn ai một chút chẳng quên, Oán ai một chút ghi bên dạ này. Kiều cũng vậy, báo ân xong xuôi, nàng mới trả thù và hành động trả thù của nàng cũng thật quyết liệt, ghê gớm. Trừ Hoạn Thư được Kiều tha vì lẽ này lẽ khác, còn cả lũ Mã, Sở, Tú Bà… đều phải chịu cảnh Máu rơi thịt nát tan tành, Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời, đúng như lời thề thốt trước đây của chính chúng. Đó là hợp với lẽ trời : Cho hay muôn sự tại trời, Kẻ gieo gió ắt phải gặt bão. Kẻ gây ra tội ác ắt phải đền tội giữa thanh thiện bạch nhật. Đó là quy luật và cũng là chân lí cuộc đời.
Sau khi báo ân báo oán, mọi cơ cực, oán trái, gian truân của đời Kiều như được trút sạch. Từ địa vị thấp hèn, Kiều được nâng lên địa vị của một bậc phu nhân, một quan tòa. Cuộc đời nàng từ đây tưởng tràn trề niềm vui và ánh sáng, nhưng éo lo thay, như một định mệnh đã ghi trong số đoạn trường, Kiều lại rời vào một tai họa khác mà nàng vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân. Vì tin lời hứa của Hồ Tôn Hiến, Kiều đã khuyên Từ Hải ra hàng. Kiều thực sự không muôn tiếp diễn cảnh Đống xương Vô Định đã cao bằng đầu, không muôn Từ Hải tiếp tục sống ngoài vòng pháp luật và bản thân nàng mong muôn sớm được sum họp với gia đình. Tên Tổng đốc trọng thần Hồ Tôn Hiến đã đẩy đau thương của Kiều tới mức tột cùng! Nàng ân hận và chỉ còn một lối thoát duy nhất là tìm đến cái chết dế chấm dứt Cuộc đời và chuộc lại lỗi lầm. Cội nguồn sâu xa của hành động sai lầm này là lòng nhân ái, nhẹ dạ tin người. Xét kĩ, ta có thể thông cảm và tha thứ cho nàng.
Có lẽ cả Nguyễn Du lẫn người đọc không ai muốn người con gái tài sắc, đức hạnh nhường ấy phải chết trong sóng nước Tiền Dương. Cái kết thúc có hậu theo quan điểm nhân dân của tác giả đã dưa nàng trở về cõi sống, cho nàng đoàn tụ với người thân sau bao năm xa cách. Điều đó có làm giảm nhẹ đôi phần bi thương trong số phận nhân vật nhưng thật ra từ đây, Kiều tuy sống mà bóng dáng chỉ còn thấp thoáng sau màn khói sương hư ảo.
Đọc Truyện Kiều, chúng ta thấy tâm huyết của tác giả như máu chảy trên đầu ngọn bứt. Tác giả dành bao yêu thương, trân trọng, xót xa cho nhân vật chính của mình – người con gái tài hoa mà bạc mệnh.
Truyện Kiều là tiếng kêu. đứt ruột về thân phận con người – nhất là người phụ nữ trong xã hội phong kiến mà nhân cách bị chà đạp, vùi dập thảm thương. Thúy Kiều là cô gái có nghĩa có tình. Mặc dù rơi vào cảnh ngộ éo le, đau khố triền miên nhưng trong bối cảnh cuộc đời tăm tối ấy, phẩm giá Thúy Kiều vẫn thanh cao, rạng ngời. Có thế ví Thúy Kiều như một bông sen nở giữa đầm lầy. Phẩm hạnh quý giá ấy khiến cho hình tượng Thúy Kiều trở nên bất diệt. Nhân vật Thúy Kiều đã để lại cho chúng ta những bài học đạo lí thấm thía và bổ ích. Dó là giá trị nhân văn lớn lao của tác phẩm.
Phân tích nhân vật Thúy Kiều trong Truyện Kiều – Bài làm 2
Tác phẩm “Truyện Kiều” là một tác phẩm bất hủ luôn gắn liền với tên tuổi của đại thi hào Nguyễn Du. Truyện tập trung xoay quanh cuộc đời sóng gió của Thúy Kiều – một người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng bị những thế lực đen tối của xã hội phong kiến khiến cho nàng phải trải qua những đau thương vô cùng tận. Thế nhưng, trong đau khổ, ở Kiều vẫn ánh lên vẻ đẹp của một người con gái đẹp với phẩm hạnh cao quý của mình.
Ngay từ đầu tác phẩm, đại thi hào Nguyễn Du đã giành sự ưu ái rất lớn cho Thúy Kiều. Nàng có tài, có sắc, mà cả tài và sắc đều ở mức độ “mười phân vẹn mười”. Đáng lẽ, nàng sẽ có một cuộc sống vô cùng tốt đẹp bên cha mẹ và hai người em của mình. Thế nhưng, “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”, tai họa bất ngờ ập đến với gia đình nàng. Là một người con hiếu thảo, không nỡ để cha và em mình bị vu oan, bị tra tấn, lại trước tình cảnh lũ quan lại mè nheo, quấy nhiễu để vòi tiền “ Có ba trăm lạng việc này mới xong”, nàng đã phải bán mình chuộc cha. Đây là một việc làm quá sức tưởng tượng đối với một người con gái lớn lên trong sự giáo dục đầy đủ, với phẩm hạnh thanh cao và cốt cách cao quý. Thế nhưng, Kiều đã vượt qua tất cả để có thể cứu gia đình của mình. Nàng nguyện hi sinh thân mình để đổi lấy an ổn cho mọi người. Nàng cũng đau đớn chặt đứt dây tình với Kim Trọng để có thể thực hiện lòng hiếu thảo của mình. Ngay cả khi cuộc đời bắt nàng trôi dạt khắp nơi “ Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”, nhưng lúc nào nàng cũng không lo cho bản thân, mà chỉ nhớ đến gia đình, nhớ đến cha mẹ già mà nàng không thể chăm sóc. Kiều là một người con gái vô cùng hiếu thảo, nàng chấp nhận hi sinh thân mình, ngay cả khi xót thương cho mình, nàng cũng xót thương cho cha mẹ:
“Dặm nghìn nước thẳm non xa,
Nghĩ đâu thân phận con ra thế này!”
Nàng nghĩ đơn giản, chỉ là gả cho Mã Giám Sinh làm thiếp, ai ngờ bị hắn lừa bán nàng vào lầu xanh, xa xôi cách trở, không thể trở lại thăm gia đình. Mặc dù đã có hai em, nhưng phận làm con, nàng vẫn luôn đau đáu nhớ về cha mẹ, không biết cha mẹ có khỏe không. Nàng thương cả cho cha mẹ luôn nhớ thương về mình mà bặt vô âm tín.
Trong gia đình, Kiều là một người con hiếu thảo. Trong tình yêu, Kiều cũng là một người con gái vô cùng chung thủy. Thúy Kiều và Kim Trọng đã cùng nhau trao kỉ vật làm tin, cùng nhau thề nguyền dưới trăng. Vậy mà tai họa ập đến, Kiều tự tay cắt đứt dây tơ hồng vừa bén, thế nhưng nàng vẫn tự nghĩ mình là người khiến cho Kim Trọng đau lòng. Trong lúc phải bán mình chuộc cha, lẽ ra, nàng là người bi thương hơn ai hết, thế nhưng nàng chỉ nghĩ cho Kim Trọng mà không nghĩ đến bản thân. Không chỉ có thế, Kiều còn giao duyên cho em gái mình là Thúy Vân để chăm sóc Kim Trọng thay cho nàng. Nàng quyết tâm trở thành người con hiếu thảo, nhưng trái tim nàng vẫn như vỡ ra từng mảnh.
Trong mười lăm năm lưu lạc, Kiều là một người trọng tình trọng nghĩa. Điều này thể hiện rõ ràng nhất qua đoạn trích Kiều báo ân, báo oán. Trong cuộc đời nàng, có rất nhiều người giúp đỡ, cũng có vô số kẻ hãm hại nàng, nàng đều trả lại hết. Đối với những người có ơn với nàng: “Ngàn vàng gợi chút lễ thường/ Mà tỏng Phiếu Mẫu mấy vàng cho cân”. Nàng báo ơn, nhưng vẫn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của nàng, mà không vật chất nào có thể thay thế. Đối với những kẻ đã từng hãm hại nàng, nàng cũng không hề nương tay, khiến cho chúng phải “ Máu rơi thịt nát tan tành/ Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời”. Ngoại trừ Hoạn Thư với khả năng biện hộ khéo léo được Kiều tha cho, còn lại, tất cả lũ gian ác đều phải chịu trừng phạt.
Mười năm lăm khổ cực trôi qua, chẳng được mấy ngày an ổn, cuối cùng Kiều trở về trong sự vui mừng của gia đình, của mối tình đầu Kim Trọng. Thế nhưng nàng nhất quyết không thành đôi cùng Kim Trọng, mà chỉ làm bạn với chàng. Được sống cùng gia đình, được làm bạn với Kim Trọng đã là hạnh phúc hơn biết bao ngày qua của nàng rồi. Ở đoạn kết, Nguyễn Du có viết:
“Ngẫm hay muôn sự tại Trời
Trời kia đã bắt làm người có thân.
Bắt phong trần, phải phong trần,
Cho thanh cao, mới được phần thanh cao”
Vậy ra, tất cả đều do ông trời cả!
Thúy Kiều xứng đáng là một nhân vật điển hình cho người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Một người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng bị các thế lực đen tối hãm hại, xô đẩy, phải sống một cuộc đời cay đắng, tủi nhục. Nhưng ngay cả trong đau khổ, ở nàng vẫn ánh lên một nhân cách thanh cao, phẩm cách cao quý khiến cho bao người xót thương, kính trọng.
Phân tích nhân vật Thúy Kiều trong Truyện Kiều – Bài làm 3
Nói đến Nguyễn Du thì ta không thể nào không nhớ đến truyện Kiều. Mặc dù tác phẩm đã có nhiều năm tuổi nhưng đến bây giờ thì sức sống của nó vẫn còn nguyên vẹn. Có thể Nguyễn Du đã để lại cho chúng ta một kiệt tác, một tác phẩm thiên tài. Trong truyện ấy thì chúng ta nhớ đến nhất là nhân vật Thúy Kiều. Qua những câu thơ của đại thi hào ta thấy được những vẻ đẹp của người con gái hồng nhan bạc mệnh ấy. Đồng thời qua đó ta thấy được quan điểm nghệ thuật mới tiến bộ về con người của Nguyễn Du.
Trước hết là vẻ đẹp hiện lên của Thúy Kiều, Nguyễn Du giới thiệu nàng là một người con gái xinh đẹp. Ở nàng ta thấy một người con gái đẹp một cách hoàn mĩ, nàng đẹp về cả nhan sắc, tâm hồn, tình cảm và tài năng. Thế nhưng chính sự hoàn mĩ ấy đã làm cho cuộc đời Kiều trở nên gian truân bạc mệnh trong xã hội phong kiến- nơi mà cuộc đời người phụ nữ không thể có hạnh phúc được.
Thứ nhất là nét đẹp về nhan sắc, theo Nguyễn Du thì nàng có một nhan sắc trời cho, trên đời chỉ có một chứ không bao giờ có hai. Vẻ đẹp ấy được Nguyễn Du thể hiện qua những câu thơ trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà
Xem bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đầy họa hai”
Đó chính là vẻ đẹp của nàng Thúy Kiều, một vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành, khiến cho ai nhìn cũng đắm say muốn chinh phục. Thế nhưng đó chỉ là những người nam tử thôi còn với vẻ đẹp khiến cho hoa khen, liễu hờn ấy lại khiến cho những người con gái khác đố kị. Thật vậy, chính vì nhan sắc chỉ có một trên thế gian cho nên chính thiên nhiên cảnh vật cũng ghen với nàng chứ huống chi con người.
Không chỉ có một nhan sắc trời cho Kiều còn có tài năng mà thể hiện sự khuê các của những tiểu thư khuê các:
“Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương”
Nàng hội tụ đầy đủ những gì là tài năng của những người con gái thời xưa. Một người con gái thời ấy được coi là có tài nếu như có thể biết ngâm thơ vịnh cảnh, đàn nhạc cung bậc. Nói tóm lại là cầm, kì, thi, họa. Và người con gái ở đây không những xinh đẹp mà còn có tài đánh đàn, ngâm thơ, họa cảnh nữa.
Đã có nhan sắc, có tài năng rồi Kiều lại còn rất có tình cảm và sống trân trọng những người xung quang mình.
Trước hết là cha mình, hành động thể hiện tình cảm của Kiều đối với cha và gia đình mình chính là nàng quyết định bán mình để chuộc lấy cha. Người cha của Kiều bị hãm hại chính vì thế mà Kiều quyết định hi sinh mình, quyết định trở thành món hàng để bán mình chuộc cha.
Không chỉ thế người người con gái ấy tuy vì nghĩa mà hi sinh chữ tình nhưng không quên chàng Kim Trọng. Nàng quyết định trao duyên cho Thúy Vân, em gái nàng. Nàng tự nguyện quỳ xuống lạy em để mong em thay chị nối duyên với chàng Kim:
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Giữa đường đứt cánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”
Trên những chuyến lưu lạc trên trần đời Kiều đã gặp hai người đàn ông mà Kiều cảm thấy có ơn nhất. Đó chính là Thúc Sinh và Từ Hải. Hai người quân tử ấy đều cứu Kiều ra khỏi chốn lầu xanh. Kiều đã sống với họ như những người vợ chồng. Không phải vì Kiều lẳng lơ mà là do Kiều đang trả ơn họ. Đồng thời chính sự cảm kích đã khiến cho Kiều thấy yêu mến họ.
Tuy nhiên chính vì tài sắc như vậy mà Kiều có mọt cuộc đời gian truân vất vả. So với Thúy Vân cả hai chị em đều xinh đẹp nhưng vẻ đẹp của cô em lại được người khác thấy mến thấy yêu chứ không đố kị như vẻ đẹp của chị. Và Kiều bước vào những chuyến gian nan, vào cuộc sống thanh lâu hai lượt thanh y hai lần. Chịu cảnh là người kĩ nữ lầu xanh có thể ở với bất cứ người đàn ông nào. Cuộc đời bạc mệnh ấy nhưng Kiều đã không đánh mất mình, Kiều hai lần tự tử đã cho thấy được tâm hồn của Kiều vẫn biết thẹn.
Qua nhan sắc tài năng và cuộc đời của Kiều ta thấy được quan niệm nghệ thuật tiến bộ của Nguyễn Du về con người. Ông đề cao, cảm thông sâu sắc đối với cuộc sống và con người, đặc biệt là những con người nhỏ bé, bất hạnh, những người phụ nữ. Những con người vốn bị coi rẻ trong xã hội vẫn được ông đề cập đến một cách trân trọng, thương yêu. Đồng thời ông cũng khái quát bản chất tàn bạo của xã hội phong kiến, bộc lộ sự phẫn nộ đối với những kẻ chỉ vì đồng tiền mà hãm hại người khác, chà đạp lên nhâm phẩm của người khác. Ông là người đầu tiên trong văn học trung đại đã nêu lên một cách tập trung vấn đề về thân phận những người phụ nữ có sắc đẹp và tài năng văn chương nghệ thuật. Ông đã đề cập đến một số vấn đề rất mới nhưng cũng rất quan trọng của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học: xã hội cần phải trân trọng những giá trị tinh thần, do đó cần phải trân trọng những chủ thể đã sáng tạo ra những giá trị tinh thần đó. “Truyện Kiều” thấm đẫm tinh thần ngợi ca, trân trọng vẻ đẹp kì diệu của tình yêu đôi lứa.
Qua đây ta thấy Nguyễn Du một người nghệ sĩ tài ba đã mang đến một hình tượng nhân vật Thúy Kiều – đại diện cho những người phụ nữ tài hoa nhưng bạc mệnh trong xã hội phong kiến. Chính cái xã hội ấy đã chà đạp lên những phẩm chất và vẻ đẹp mà đáng nhẽ ra phải có cuộc sống hạnh phúc của họ. Đồng thời đại thi hào cũng thể hiện được đặc sắc nghệ thuật tiến bộ về con người của mình.
Phân tích nhân vật Thúy Kiều trong Truyện Kiều – Bài làm 4
Đời người, với những nỗi buồn sầu thế và những bất hạnh khôn cùng trải dài ra mênh mông, vô tận, cập bến lửa thiêng và đến với nhà thơ Nguyễn Du- một đại thi hào của dân tộc. Thân phận con người, đặc biệt là thân phận người con gái trong xã hội phong kiến suy tàn với bao bất công ngang trái, coi trọng thế lực đồng tiền đã đi vào trái tim nhà thơ với bao rung cảm và bao xót xa đau đớn. Hình tượng Thuý Kiều ra đời trong bao dồn nén về cuộc đời, về thân phận con người của nhà thơ. Đó là đại diện cho một kiếp người, một lớp người trong xã hội phong kiến hủ bại và thối nát. Qua hình tượng nàng Kiều và với những giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo sâu sắc trong tác phẩm “Truyện Kiều”, ta có thể thấy rõ được quan niệm nghệ thuật mới tiến bộ về con người, về cá nhân của đại thi hào Nguyễn Du.
“Truyện Kiều” được sáng tác dựa trên cơ sở cốt truyện của tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc “Kim Vân Kiều truyện”. Tuy nhiên Nguyễn Du đã sáng tạo nên một tác phẩm mới, với cảm hứng mới, nhận thức lý giải về nhân vật theo cách của riêng ông, với thể loại truyện thơ khác hẳn “Kim Vân Kiều truyện” là tác phẩm tự sự văn xuôi.
Nhân vật nàng Kiều hiện lên trên nền bi kịch của cuộc đời. Nàng có ý thức về nhân phẩm của mình nhưng lại bị xã hội hủ bại chà đạp nhân phẩm. Đó là bi kịch lớn nhất của đời người. Nỗi xót xa, đau đớn bao trùm lên một con người mà “hoa ghen đua thắm liễu hờn kém xanh”, “một hai nghiêng nước nghiêng thành- Sắc đành đòi một tài đành hoạ hai”. Văn học trung đại viết về con người đã ít, viết về số phận con người, đặc biệt là số phận của người phụ nữ lại càng ít hơn. Với cái xã hội trọng nam khinh nữ thì một Nguyễn Du và một “Truyện Kiều” xuất hiện như toả sáng nền văn học tối tăm, soi đường chỉ lối và tôn lên giá trị nhân phẩm cao quý của con người.
Thuý Kiều- một người con gái tài hoa, xinh đẹp- một vẻ đẹp sắc sảo, mặn mà, một tài năng hiếm thấy, nổi bật về cả cầm, kì, thi, hoạ. Nguyễn Du đã dồn hết tâm huyết của mình vào sáng tạo hình tượng Thuý Kiều, tôn lên vẻ đẹp của người phụ nữ vốn không được coi trọng trong xã hội đương thời bằng một tấm lòng trân trọng yêu thương. Đó là điều hiếm, hoặc thậm chí không tìm thấy trong các tác phẩm trước “Truyện Kiều”, và các nhà thơ khác trước Nguyễn Du. Nghệ thuật đòn bẩy được sử dụng thật tài tình, cái đẹp “mười phân vẹn mười”, “sắc sảo mặn mà”, Thuý Kiều quả là một giai nhân hiếm có trên đời. Nếu như Thuý Vân có một vè đẹp “mây thua”, “tuyết nhường”, hài hoà với cảnh vật xung quanh, với thiên nhiên, tính cách đoan trang thuỳ mị như ngầm báo trước một tuơng lai êm đềm, phẳng lặng thì Thuý Kiều với vẻ đẹp khiến cho “hoa ghen”, “liễu hờn”, ngầm dự báo trước số phận của nàng sẽ gặp nhiều bất trắc, nhiều sóng gió bão táp. Nàng Kiều đã tự viết lên khúc nhạc ai oán, não nùng. Phải chăng nàng đã tự dự đoán trước được tương lai, số phận của mình- tương lai, số phận của người con gái tài hoa nhưng bạc mệnh trong cái xã hội chỉ coi trọng đồng tiền mà vùi dập, chà đạp lên thân thể, danh dự và cả nhân phẩm của con người. Qua hình ảnh nàng Kiều, ta thấy được cái nhìn yêu quý, trân trọng, cảm thông của Nguyễn Du với nhân vật lý tưởng của mình, cũng như với những kiếp người nhỏ bé trong xã hội. Đó là quan niệm nghệ thuật mới tiến bộ về con người, cá nhân của nhà thơ Nguyễn Du.
Biết cảm thông, chia sẻ, Kiều đã cảm thấy rất buồn và thương cho nấm mộ Đạm Tiên bên đường cỏ mọc hoang, không ai chăm sóc. Người con gái mang kiếp cầm ca, sống thì bị dè bỉu, chết đi thì nấm mồ cũng vẫn cô đơn hiu quạnh.
“Kiếp hồng nhan có mong manh
Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương”
Phải chăng, cũng từ đây mà một cơn giông tố đang sắp ập đến trên đầu người thiếu nữ vô tội. Nấm mồ hoang kia phải chăng như một sự báo thức, như đánh dầu bước ngoặt cuộc đời của Kiều:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Kiều- một con người có vẻ đẹp ngoại hình, có tâm hồn trong sáng, lương thiện, tài năng, đồng thời nàng cũng là người có khát vọng tình yêu, hạnh phúc, vượt ra khỏi lễ giáo phong kiến:
“Tình trong như đã mặt ngoài còn e
Chập chờn cơn tỉnh cơn mê”
Đặc biệt là hình ảnh “xăm xăm băng nẻo đường khuya một mình” của Thuý Kiều để tìm Kim Trọng, tìm đến hạnh phúc của mình. Kiều đã vượt qua những gò bó của thời cuộc để đi tìm hạnh phúc, điều mà khó tìm thấy nơi những người con gái khác trong khi quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” vẫn đang tồn tại rất mạnh mẽ trong xã hội. Nguyễn Du đã làm cho nhân vật của mình thật nổi bật trên nền xã hội đồng tiền, xã hội phong kiến hủ bại, thối nát. Ông coi trọng con người, coi trọng sự tự do, hạnh phúc và quyền được tìm hạnh phúc cho mình của mỗi người mặc cho định kiến xã hội đang vây lấy tất cả.
“Thuý Kiều sắc sảo khôn ngoan
Vô duyên là phận hồng nhan đã đành
Lại mang lấy một chữ tình
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong”
Con người sinh ra tài hoa không phải là một cái tội, nhưng đặt trong hoàn cảnh lễ giáo phong kiến, những người có tài, có sắc, đặc biệt là người phụ nữ lại hay phải chịu những truân chuyên, vất vả. Đang ở độ tuổi đẹp nhất của thời con gái, vừa gặp được mối tình đầu của mình, tưởng như cuộc sống sẽ chuyển mình bước trên một con đường hạnh phúc, nhưng ông trời thường hay thử lòng người. Phải chăng, khúc nhạc mà Kiều sáng tác trước kia đã trở thành chính cuộc đời nàng, ai oán và não nùng. Chỉ vì đồng tiền, bọn sai nha đã gây nên vụ án oan trong gia đình Kiều, vì đồng tiền mà bọn chúng đã phá hoại hạnh phúc gia đình Kiều, từ một mái ấm êm đềm bỗng tan hoang, lạnh lẽo. Thuý Kiều, với tư cách là một người chị cả phải đứng ra lo liệu mọi chuyện, nàng phải hi sinh mối tình với Kim Trọng, bán mình lấy tiền hối lộ cho sai nha để cứu cha và em khỏi bị tra khảo dã man. Bi kịch cuộc đời bắt đầu từ đây, khi mà con người , khi mà nhân phẩm bị người ta mua đi bán lại như một món hàng. Mã Giám Sinh, Tú Bà xuất hiện càng làm nổi bật lên hình tượng một Thuý Kiều bất hạnh, đau đớn ê chề:
“Đắn đo cân sắc cân tài
Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ
… Cò kè bớt một thêm hai”
Cái tài, cái sắc giờ đây bị mang ra cân đong đo đếm, bị quy ra thành tiền:
“Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm”
Cảnh mua bán hiện lên thật sinh động, có người mua, kẻ bán, có sự thử hàng, trả giá, mặc cả, giao kèo. Từ “ép”, “thử” đã lột trần bản chất của Mã Giám Sinh, đồng thời khắc hoạ được rõ nét nỗi đau đớn, bất hạnh khi bị coi như một món hàng mua bán của Thuý Kiều. Từ một nghìn mà bị ngã giá xuống bốn trăm lạng, trong xã hội đồng tiền, con người chỉ đáng giá thế thôi sao?
Xã hội phong kiến đã chà đạp lên nhân phẩm và đạo đức của con người. Phẩm giá bị xúc phạm, Thuý Kiều căm tức những kẻ đã gây ra cho gia đình nàng nỗi ô nhục này: “nỗi mình thêm tức nỗi nhà”. Nàng đau xót, nàng khóc cho số phận hẩm hiu của mình:
“Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng
Ngại ngùng dợn gió e sương”
Hình ảnh Thuý Kiều hiện lên thật tội nghiệp. Nàng đau khi nghĩ đến “nỗi mình”- tình duyên dang dở, “nỗi nhà” bị vu oan giáng hoạ. Mỗi bước đi của nàng nước mắt tuôn mà lòng quặn thắt. Là một tiểu thư khuê các mà giờ đây lại trở thành một món hàng nên càng tủi thẹn, xấu hổ ê trề khi phải đối mặt với sự thật. Nhưng Thuý Kiều càng buồn bao nhiêu thì lại càng đẹp bấy nhiêu: “Nét buồn như cúc điệu gầy như mai”. Với bút pháp ước lệ tượng trưng, tác giả đã khắc hoạ thành công nỗi buồn của Kiều, đồng thời thể hiện niềm cảm thông sâu sắc trước thực trạng con người bị chà đạp. Thuý Kiều hiện lên trên bức tranh khổ đau vẫn thật đẹp về cả ngoại hình lẫn nhân phẩm. Dù bị xã hội dồn ép, đè nén, nhưng hình ảnh một người con gái hi sinh hạnh phúc của mình và gia đình hiện lên thật đáng quý, đáng trọng. Đó cũng là nét nghệ thuật tiến bộ về con người, cá nhân của Nguyễn Du khi mà trong văn học cũ, con người không được đề cao.
Biết rằng cuộc đời mình sẽ chuyển sang một trang mới, biết rằng mối tình Kim- Kiều sẽ chẳng đi về đâu. Sau những đêm trắng nghĩ đến thân phận và tình yêu, Kiều quyết đinh nhờ Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng:
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Giữa đường đứt gánh tương tư
Kheo loan chắp mối tơ thừa mặc em”.
Là chị mà Kiều phải lạy, phải thưa với em của mình, một thái độ vừa kính trọng, vừa biết ơn. Kiều đã nghĩ rất chu toàn, biết rằng việc này rất khó cho Vân nên nàng rất khó để mở lời. Nàng tâm sự với em về mối tình trong sáng, cao đẹp của mình đối với chàng Kim. Đối với Kiều, giữa chữ hiếu và chữ tình, nàng đều muốn trọn vẹn cả hai.
Đau đớn nhất trong đời người là nhân phẩm bị chà đạp, và nỗi đau đớn đó càng nhân lên gấp bội khi phải từ bỏ tình yêu của mình. Kiều trao duyên cho Thuý Vân mà lòng đau xót, nuối tiếc, nhớ lại tất cả những kỉ niệm đã qua, nhận ra mình là người bạc mệnh:
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này”.
Kiều tưởng tượng về tương lai mờ mịt của mình, nàng nghĩ mình sẽ chết, nhưng dù có chết vẫn trở về lời nguyền thuỷ chung:
“Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai”
Đau đớn đến cực điểm, tâm hồn nàng như mê man, đang nói với em mà lòng như hướng về chàng Kim và mong chàng hiểu cho nỗi niềm oan khuất của mình:
“Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”
Nỗi đau đớn, xót xa, nghẹn ngào đến xé lòng. Trong đau thương, Kiều vẫn sáng ngời lên vẻ đẹp của mình, giàu lòng vị tha và đức hi sinh”
“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”
Từ một cô gái tiểu thư khuê các, vô lo vô nghĩ về cuộc đời, hạnh phúc tình yêu đang chớm nở, giờ đây Kiều đã mất tất cả, hạnh phúc lứa đôi, mái ấm gia đình. Nguyễn Du đã nhìn nhân vật của mình bằng một ánh mắt cảm thông, chia sẻ, cho nàng được bộc lộ nỗi đau đớn của mình. Mỗi dòng thơ, mỗi câu chữ đều thâm đẫm tình cảm của tác giả với số phận của Kiều, của những người con gái như Kiều, không chỉ thế, ông còn gián tiếp tố cáo xã hội phong kiến đã gây ra cho con người bao tang thương, mất mát, bao đau đớn, ê chề, xã hội coi trọng đồng tiền hơn cả con người, cái xã hội mà tại đây, bao con người, bao người con gái đã bị dẫm đạp lên nhân phẩm, đã phải sống cuộc đời của một con người mà sống không bằng chết, đau đớn, nhục nhã.
“Đau đớn thay phận đàn bà
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu”
Từ lúc gặp biến cố, phải bán mình chuộc cha, trao duyên lại cho em là Thuý Vân, Kiều đã trải qua 15 năm lưu lạc, trong 15 năm ấy, Kiều đã gặp phải bao sự lọc lừa nhưng có lẽ đau đớn nhất là lần Kiều bị Mã Giám Sinh lừa bán đến lầu xanh. Đó là bước ngoặt bẻ ngang cuộc đời Kiều sang một hướng khác. Rơi vào tay Tú Bà, Kiều rút dao tự vẫn nhưng không thành. Ở lầu Ngưng Bích, Kiều lại mắc bẫy Sở Khanh, bị đánh đập tơi bời “Thân lươn bao quản lần đầu- Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa”.
Sống ở lầu Ngưng Bích, trong cảnh cô đơn tuyệt đối, Kiều không biết tâm sự với ai, nàng đành tự tâm sự với chính mình. Trước hết nàng nhớ đến chàng Kim, nhớ đến lời thề đôi lứa: “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng- Tin sương luống những rày trông mai chờ”. “Tưởng”, đó là tâm trạng của những người yêu nhau trong xa cách. Nàng nhớ đến lời thề nguyền dưới ánh trăng. Hình dung ra nỗi nhớ, sự chờ mong nàng trong vô vọng của chàng Kim. Nàng nghĩ đến chàng Kim trong cảnh cô đơn, bơ vơ nơi chân trời, góc bể. Thuý Kiều là một người con hiếu thảo nhưng tác giả lại để cho Kiều nhớ đến chàng Kim trước , nhớ đến cha mẹ sau. Điều này thể hiện sự tinh tế của tác giả phù hợp với quy luật tâm sinh lý bởi vì Kiều đã bị Mã Giám Sinh làm nhục, ép tiếp khách làng chơi nên nỗi đau lớn nhất của Kiều là “tấm son gột rửa bao giờ cho phai”. Có thể hiểu theo hai nghĩa, tấm son là tấm lòng nhớ tới chàng Kim không bao giờ nguôi hoặc tấm lòng son của Kiều bị vùi dập hoen ố không biết bao giờ mới gột sạch được. Nàng nhớ đến cha mẹ sau vì dù sao, khi bán mình chuộc cha, nàng cũng đã phần nào báo đáp được cha mẹ. Nàng nhớ và thương cha mẹ khi sớm chiều tựa cửa ngóng trông con. Nàng xót xa lúc cha mẹ ốm đau mà nàng không được tự tay chăm sóc, phụng dưỡng. Nàng tưởng tượng cảnh quê hương tất cả đã thay đổi, và thay đổi lớn nhất là cha mẹ ngày càng già yếu. Trong cảnh ngộ bị giam lỏng trong lầu Ngưng Bích, không lúc nào là nàng không nhớ về Kim Trọng, về gia đình. Kiều đã bộc lộ phẩm chất đáng quý, một tấm lòng vị tha đáng trọng, một con người thuỷ chung, hiếu thảo. Nguyễn Du hiểu thấu tâm trạng và suy nghĩ của nhân vật của mình. Với ngòi bút xuất sắc của mình, kèm các điểm tích, điển cố, tác giả đã làm tôn lên sáng ngời vẻ đẹp trong tâm hồn của người con gái bất hạnh, dù bị hoàn cảnh xô đẩy nhưng tâm hồn vẫn luôn trong sáng, lương thiện, luôn hướng về mái ấm gia đình, hạnh phúc lứa đôi. Đây cũng chính là phẩm chất đáng quý của người phụ nữ Việt Nam trong mọi thời đại, ngời sáng những lý tưởng cao đẹp.
Nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, Kiều càng thấm thía nỗi cô đơn trống vắng của mình:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trong ngọn cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duyềnh
Ầm ấm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Người buồn, cảnh cũng buồn. Nỗi buồn vô vọng, kéo dài, trải rộng ra mênh mang. Tiếng sóng như báo trước sóng gió dữ dội của cuộc đời hay là tiếng kêu đau đớn của Kiều đồng vọng với thiên nhiên? Kiều không chỉ buồn mà còn lo sợ, kinh hãi trước sóng gió, bão táp của cuộc đời đang sắp đổ xuống đầu nàng! Nỗi buồn thoảng thốt lo âu, dự cảm hãi hùng của một người con gái lần đầu lạc bước giữa cuộc đời lắm sóng gió và truân chuyên. Lúc này Kiều trở nên tuyệt vọng để rồi “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”. Tiếng sóng gầm lên dữ dội như muốn hất tung, nhấn chìm người con gái cô đơn, tội nghiệp trên chiếc ghế đời mỏng manh. Qua đó, ta càng thấy rõ được tấm lòng chân trọng, cảm thông của tác giả đối với số phận người con gái tài hoa bạch mệnh. “Trăm năm trong cõi người ta- Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”
Kiều- một nhân phẩm quá đỗi cao đẹp, một tâm hồn trong sáng, một bông hoa từ cảnh sống “êm đềm chướng rủ mành che” bỗng nhiên bị ném vào bùn nhơ, giữa cái xót. Sống trong cảnh lầu xanh biết bao “bướm lả ong lơi” mà Kiều vẫn giữ được một tâm hồn trong sáng. Giật mình lúc nửa đêm khi tỉnh rượu, nàng chợt nhận rõ tình cảnh của bản thân. Sống trong cảnh lầu xanh, Thuý Kiều vẫn không quên đi nỗi nhục của bản thân. Phải chăng, nếu nàng quên được thì đã không đau khổ đến thế này? Đau khổ vẫn ở trước mắt, quá khứ tươi đẹp lại quá xa xôi. Cảnh thiên nhiên đẹp nhưng thấm đậm nỗi buồn:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?
….
Vui là vui ngượng kẻo là,
Ai chi âm đó mặn mà với ai?”
Nàng chán chường vì không tìm ra được người tri âm tri kỉ. Câu hỏi được đặt ra giống như nàng đang đi tìm tri âm của mình, nhưng cũng chính là tự khẳng định: không có ai cả. Thuý Kiều rơi vào một tình cảnh trớ trêu, dễ làm con người đánh mất nhân phẩm. Kiều ý thức rõ nhân phẩm đau khổ của mình, tiếc nuối quá khứ, khinh ghét bản thân, thờ ơ với những thú vui ở lầu xanh. Nguyễn Du không thương xót chung chung mà ông chú ý đến nỗi đau cá nhân của con người. Sau lối xưng “ta” đặc trưng của văn học trung đại, ta chợt nghe thấy một giọng ca riêng cùng nỗi thương thân của cái “tôi”. Thương mình là nền tảng vững chắc cho lòng thương người. Mà đây là “nỗi thương mình” của con người dưới đáy xã hội nên nó càng mới lạ và giàu tính nhân đạo. Nó cho thấy Nguyễn Du quan tâm tới mọi tầng lớp trong xã hội chứ không chỉ ở tầng lớp trên. Không phải những người ở hoàn cảnh xấu đều xấu. Đó là quan điểm nghệ thuật mới tiến bộ về con người, cá nhân của Nguyễn Du.
Bên cạnh những phẩm chất đáng quý trong tâm hồn, ở Kiều còn nổi bật lên hình ảnh một con người bao dung, giàu lòng vị tha. Đối với Thúc Sinh, kẻ đã cứu nàng thoát khỏi bùn lầy nhơ nhuốc, nàng đã rất trân trọng biết ơn:
“Nàng rằng nghĩa nặng nghìn non
Lâm tri người cũ chàng còn nhớ không?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng
Tại ai há dám phụ lòng cố nhân”
Còn đối với Hoạn Thư, nàng cũng rộng lòng tha thứ: “Dã lòng tri quá thì nên- Truyền quân lịnh xuống trướng tiền tha ngay”. Thuý Kiều trong toàn tác phẩm hiện lên luôn thật cao đẹp và sáng ngời. Nguyễn Du đã thổi hồn vào cây bút, làm nên một Thuý Kiều đẹp về cả thể xác lẫn tâm hồn. Tuy cuộc sống luôn gặp nhiều bất trắc nhưng tâm hồn vẫn nở hoa giữa bùn nhơ của cuộc đời, của xã hội bất công chà đạp con người.
Trên một nền tảng nhân đạo chủ nghĩa vững chãi, với tài năng điêu luyện, sự lựa chọn thể truyện thơ kết hợp nhuần nhuyễn với chất tự sự và trữ tình, với sự am hiểu đồng thời cả ngôn ngữ bình dân cũng như ngôn ngữ văn học bác học, Nguyễn Du đã sáng tạo một kiệt tác độc nhất vô nhị của văn học trung đại Việt Nam. Qua hình tượng Thuý Kiều, cái mới trong quan điểm nghệ thuật về con người và cá nhân của Nguyễn Du được bộc lộ khá rõ nét. Ông đề cao, cảm thông sâu sắc đối với cuộc sống và con người, đặc biệt là những con người nhỏ bé, bất hạnh, những người phụ nữ. Những con người vốn bị coi rẻ trong xã hội vẫn được ông đề cập đến một cách trân trọng, thương yêu. Đồng thời ông cũng khái quát bản chất tàn bạo của xã hội phong kiến, bộc lộ sự phẫn nộ đối với những kẻ chỉ vì đồng tiền mà hãm hại người khác, chà đạp lên nhâm phẩm của người khác. Ông là người đầu tiên trong văn học trung đại đã nêu lên một cách tập trung vấn đề về thân phận những người phụ nữ có sắc đẹp và tài năng văn chương nghệ thuật. Ông đã đề cập đến một số vấn đề rất mới nhưng cũng rất quan trọng của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học: xã hội cần phải trân trọng những giá trị tinh thần, do đó cần phải trân trọng những chủ thể đã sáng tạo ra những giá trị tinh thần đó. “Truyện Kiều” thấm đẫm tinh thần ngợi ca, trân trọng vẻ đẹp kì diệu của tình yêu đôi lứa.