BÀI TỰA “TRÍCH DIỄM THI TẬP”
(Trích diễm thi tập tự)
Hoàng Đức Lương
A- GỢI Ý TRẢ LỜI CÂU HỎI, BÀI TẬP
I. Hướng dẫn học bài:
Bài tập 1: Theo Hoàng Đức Lương, có những nguyên nhân nào khiến “thơ văn không lưu truyền hết ở đời ”?
Gợi ý:
Trong phần đầu của bài tựa, tác giả trình bày bốn lí do khiến thơ văn không lưu truyền hết ở đời:
– Lí do thứ nhất: Chỉ có thi nhân mới thấy được cái hay, cái đẹp của thi ca. Có thể đặt tên cho lí do này là “ít người am hiểu
– Lí do thứ hai: Người có học thì bận rộn chốn quan trường hoặc lận đận trong khoa cử, ít để ý đến thơ ca. Có thể đặt tên cho lí do này là: “Danh sĩ bận rộn.
– Lí do thứ ba: Có người quan tâm đến thơ ca nhưng không đủ năng lực và kiên trì, Có thể đặt tên cho lí do này là: “Thiếu người tâm huyết”.
– Lí do thứ tư: Triều đình chưa quan tâm. Có thể đặt tên cho lí do này là: “Chưa có lệnh vua’’…
Ngoài bốn lí do thuộc về chủ quan, tác giả còn nêu lí do thuộc về khách quan.
Đoạn tiếp theo từ “Vĩ bốn lí do kể trên…” đến “… mà không rách nát tan tành” là lí do thứ năm: thời gian và binh hoả có sức huỷ hoại ghê gớm. Đoạn văn kết lại bằng một câu hỏi tu từ có ý nghĩa phủ định: “… thì còn giữ mãi thế nào được mà không rách nát tan tành? Câu hỏi biểu hiện nỗi xót xa của tác giả trước thực trạng đau lòng. Đó là nguyên nhân thôi thúc tác giả làm sách “Trích diễm thi tập”.
Bài tập 2. Hoàng Đức Lương đã làm gì để sưu tầm thơ văn của tiền nhân?
Gợi ý:
Phần tiếp theo, tác giả trình bày động cơ khiến mình phải sưu tầm, tuyển chọn thơ ca dân tộc để soạn “Trích diễm thi tập”. Đó là:
– Thực trạng tình hình sách vở về thơ ca Việt Nam rất hiếm ”không khảo cứu vào đâu được”. Người học làm thơ như Hoàng Đức Lương “chỉ trông vào thơ bách gia đời nhà Đường”.
– Nhu cầu bức thiết phải biên soạn sách “Trích diễm thi tập ” bởi vì “một nước văn hiến, xây dựng đã mấy trăm năm, chẳng lẽ không có quyển sách nào có thể làm căn bản
Đó là những động cơ thôi thúc tác giả soạn sách “Trích diễm thi tập”.
Việc làm thì hết sức lớn lao, công phu và ý nghĩa, không phải ai muốn cũng làm được. Song, tác giả thể hiện thái độ hết sức khiêm tốn. Đây là thái độ thường thấy của người phương Đông thời trung đại. Hoàng Đức Lương tự coi mình là “tài hèn sức mọn”, khi nói về việc đưa thơ của mình vào cuối các quyển, tác giả nói “mạn phép phụ thêm những bài vụng về do tôi viết”.
Để hoàn thành “Trích diễm thi tập”, Hoàng Đức Lương đã phải: “tìm quanh hỏi khắp” để sưu tầm thơ ca của những người đi trước. Rồi tác giả “thu lượm thêm thơ của các vị hiện đang làm quan trong triều”. Sau đó là công việc biên soạn “chọn lấy bài hay” rồi “chia xếp theo từng loại”. Tác giả đặt tên sách là Trích diễm, gồm 6 quyển. Đây là công việc đòi hỏi tốn nhiều thời gian, công sức, người không tâm huyết sẽ không thể làm được.
Bài tập 3. Điều gì thôi thúc Hoàng Đức Lương vượt khó khăn để biên soạn tuyển tập thơ này?Anh (chị) có cảm nghĩ gì về công việc sưu tầm, biên soạn thơ văn do ông tiến hành?
Gợi ý:
Để trả lời câu hỏi này cần có cái nhìn tổng hợp toàn bài. Cần nhấn mạnh đến những ý sau:
– Niềm tự hào về văn hiến dân tộc.
– Ý thức trách nhiệm trước di sản văn học của cha ông bị thất lạc.
– Tinh thần độc lập, tự chủ, ý chí tự cường trong văn học.
Bài tập 4. Anh (chị) cho biết một ỷ kiến xuất hiện trước “Trích diễm thi tập ” nói về văn hiến dân tộc.
Gợi ý:
Trước Hoàng Đức Lương, trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi cũng đã từng đề cập đến nền văn hiến của dân tộc:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu ”…
Cả hai ý kiến đều phản ánh ý thức độc lập dân tộc và niềm tự hào về văn hiến dân tộc của nhân dân Việt Nam đang trên đà được khẳng định.
Bài tập 5. Nhận xét tổng quát về bài tựa?(không có trong SGK)
Gợi ý:
Bài tựa có lập luận chặt chẽ, chất trữ tình hoà quyện vào chất nghị luận. Tác giả trình bày luận điểm một cách rõ ràng, mạch lạc và khúc chiết. Lòng yêu nước được thể hiện ở thái độ trân trọng di sản văn hoá của cha ông, niềm đau xót trước thực trạng. Qua lời tựa, người đọc còn thấy được cả không khí thời đại cùng tâm trạng của tác giả.
II-Luyện tập:
Tìm các dẫn chứng chứng tỏ các nhà văn, nhà thơ thời xưa rất tự hào về nền văn hiến dân tộc.
Gợi ý:
Ngoài bài tựa của Trần Đức Lương, bài Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi, còn nhiều tác phẩm của các tác giả khác như Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt (mặc dù chỉ là gián tiếp), Đại Việt sử kí của Lê Văn Hưu, Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Hiền tài là nguyên khí quốc gia (Bài kí đề danh bia tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba) của Thân Nhân Trung là những dẫn chứng chứng tỏ các nhà văn. nhà thơ thời xưa rất tự hào về nền văn hiến dân tộc.