Phân tích đoạn trích “Trao duyên” trong Truyện Kiều của Nguyễn Du – Bài làm 1
Truyện Kiều là một tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Du nói riêng, của cả nền văn học Việt Nam nói chung. Như tên gọi, ‘Đoạn Trường Tân Thanh’ là tiếng khóc, tiếng kêu xé lòng của một – những số phận tài hoa mà bạc mệnh dưới chế độ phong kiến hà khắc, bất công. Qua hình ảnh Kiều, Nguyễn Du khắc họa nên sự tài hoa, tinh tế, thông minh, nhưng cũng khắc họa nên một cuộc đời nhiều đau thương, éo le, trớ trêu. Nguyễn Du vừa tạo nên một Kiều sắc sảo, mạnh mẽ, lại vừa vẽ nên một Kiều yếu đuối trước những đau thương, sóng gió. Điều đó thể hiện rõ nét nhất qua đoạn trích Trao Duyên, khi mà Kiều phải trao đi niềm hạnh phúc riêng tư.
Mở đầu cuộc nói chuyện, Kiều không nói ngay vào lý do – điều sẽ khiến người khác phật lòng, khiến người khác nghĩ nàng rất kịch, mà lại tạo không khí.
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Kiều tạo nên một không khí chân thành, trang trọng khi dùng những lời lẽ thiết tha và đầy chân thật. Nàng dùng từ ‘cậy’ chứ không phải ‘nhờ’, nàng dùng từ ‘chịu’ chứ chẳng phải ‘nhận’. Nàng là phận làm chị, nhưng lại bảo Vân ‘ngồi lên cho chị lạy’. Giờ đây, nàng không còn là người chị của Vân nữa, nàng chỉ đơn thuần là một người đang nhờ cậy người khác, và Vân sẽ là người giúp nàng. Kiều xem Vân như một ân nhân – người có công cao, nghĩa nặng, một bậc bề trên – giống như cha mẹ nàng vậy. Kiều biết Vân sẽ khó xử, nhưng người xưa chẳng nói ‘Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau’ đấy sao, và Kiều khiến Vân chẳng thể từ chối được.
Và cái ngôi lại bất chợt chuyển dời. Kiều sau đó đối với Vân vừa như một người chị đang tâm sự với em về hoàn cảnh éo le của mình. Vì ‘sự đâu sóng gió bất kì’ mà nàng đành ‘giữa đường đứt gánh tương tư’. Giờ nàng chỉ có thể gửi gắm niềm tin nơi Vân ‘tơ thừa mặc em’. Nếu như người Trung Quốc có câu ‘Đời này liệu có cách lưỡng toàn, bất phụ Như Lai, bất phụ người?(1)’ thì Kiều có ‘Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai’. Kiều đã từng đem cân chữ hiếu và chữ tình ‘Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn’, và nàng chọn chữ hiếu. Nhưng khi đứng ở bờ vực chênh vênh – khi mà lý trí bảo nàng trao duyên này đi và tình cảm lại hối thúc nàng dừng lại, nàng lại mâu thuẫn. Nàng đã suy nghĩ trước khi đến gặp Vân, nàng quyết tự tay mình chặt đứt dây tơ hồng này, nhưng quá khứ tươi đẹp ‘Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề’ ‘kể từ khi gặp chàng Kim’ khiến nàng chùn bước. Nhưng lý trí lại mạnh mẽ đánh tỉnh nàng, lôi nàng ra khỏi giấc mộng – giấc mộng về những ngày đẹp đẽ gia đình êm ấm, khiến nàng nhận ra:
“Một kiếp phù sinh một kịch trường
Đồng sàng dị mộng kịch thê lương
Say sưa mộng cảnh người ai tỉnh
Tỉnh giấc nồng say mộng kịch tàn.”
Kiều chẳng biết nhờ ai ngoài Vân – vì Vân là người em của nàng, vì Vân là người cũng chịu cảnh gia đình tan nát như nàng – và có lẽ nàng nghĩ Vân sẽ là người duy nhất hiểu nàng, không khuyên can nàng. Mà có lẽ Vân cũng chẳng thể khuyên Kiều – khi những lời Kiều nói vừa hợp lẽ, lại hợp tình, và sự đã đến nước này rồi, chẳng gì có thể suy chuyển:
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”
Kiều cũng chỉ bằng tuổi Vân, cũng đang độ như hoa chớm nở, như trăng non mới mọc, vậy mà Kiều lại bảo Vân ‘ngày xuân em hãy còn dài’ – như thể là nàng lớn tuổi hơn Vân. Có lẽ vậy thật – một loạt các biến cố xảy ra đã khiến Kiều già đi – về mặt tâm hồn chứ không phải thể xác – khiến Kiều phải lựa chọn. Và những ngày tháng lênh đênh, lận đận, khuất nhục trước mắt khiến Kiều nghĩ đến cái chết. Cái chết đối với Kiều tựa như nhẹ tựa lông hồng – chỉ cần Vân chịu đồng ý làm cho Kiều cái ân này thì nàng ‘ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây’. Lời Kiều tựa như lời trăn trối của một người sắp chết. Ô hay, Kiều đi chuyến này chắc gì đã chết! Nhưng Kiều đã chết rồi – nàng chết vì khoảng trống trong tâm hồn không có cách nào lấp đầy – khi mà nàng trao đi cái duyên mình cố công vun đắp, ấy như cắt đi trái tim nàng vậy.
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung.”
Càng đến gần lúc phải trao duyên thật sự – khoảnh khắc Kiều trao đi kỉ vật minh chứng tình yêu giữa nàng với Kim Trọng – tình cảm càng lấn át lý trí nàng. Kiều trở nên có vẻ ích kỉ hơn, và câu nói của nàng gần như xúc phạm Vân ‘duyên này thì giữ vật này của chung’. Nhưng không, duyên có sờ, có chạm vào được đâu. Kiều trao đi cũng chỉ trao được kỉ vật thôi. Kim Trọng và Vân vốn chẳng có tình cảm, làm sao có duyên được. Nàng như đang van vỉ Vân – hãy để nàng giữ lại cái duyên này – giữ nó lại trong tâm can này, tựa như một niềm an ủi nhỏ nhoi trong những tháng ngày dài dằng dặc, mịt mù vô tận, không có điểm dừng phía trước. Mâu thuẫn giữa tình cảm và lý trí đã đẩy tâm trạng Kiều lên đến đỉnh điểm. Kiều muốn Kim Trọng được hạnh phúc, không cần phải nhìn vật nhớ người mà tự hỏi và băn khoăn ‘Nhân diện bất tri hà xử khứ?/Đào hoa y cựu tiếu đông phong’ nên mới muốn gả Vân cho Kim Trọng. Nhưng tình giữa nàng và Kim Trọng quá nặng – đến mức mà nàng không muốn trao đi, hoặc nàng cảm thấy như trao đi bao nhiêu cũng không đủ.
“Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so dây phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”
Lời của Kiều như từ cõi chết vọng về – vì tâm nàng đã chết – nàng cũng như chết rồi. Nàng là người mệnh bạc – tài hoa thì có để làm gì. Nàng vẫn mong Vân và chàng Kim ‘Cầm sắt vô đoạn ngũ thập huyền/ Nhất huyền nhất trụ tứ hoa niên’. Hồn của nàng còn ‘mang nặng lời thề’ nên dù có chết đi cũng chẳng thể siêu thoát. Nàng sẽ dùng chính linh hồn mình về tìm gặp lại người yêu cũ, theo dõi chàng, tìm cách đền đáp chàng. Nhưng chàng liệu có hiểu được chăng? Vì ấy như là âm dương cách trở. Nàng chỉ muốn người còn sống có thể thấu hiểu và đồng cảm với nàng mà thôi.
Và rồi, tình cảm như đê vỡ phá ra tràn bờ, đánh tan chút lý trí mỏng manh của nàng. Nàng như đang tự nói với chính mình, nàng quên đi sự tồn tại của Vân. Nàng tự đặt mình vào trong vòng xoáy lộn xộn những kỉ niệm và những đau khổ của hiện tại.
“Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”
‘Trâm’ đã gãy, ‘gương’ đã tan, còn có cách này để nối lại. Mà lỡ có nối lại, cũng sẽ mãi còn vết nối ấy thôi, chẳng bao giờ lành lặn được như xưa nữa. Nàng dù có về bên Kim Trọng – nhưng liệu nàng sẽ còn mặn mà với chàng sau bao nhiêu gian khó, cay đắng? Nàng ý thức được bi kịch của nàng – là bi kịch không gì có thể cứu vãn được nữa. Nàng muốn đến đáp Kim Trọng, nhưng đã trễ rồi, nàng chỉ mong được quỳ lạy trước Kim Trọng cầu xin chàng tha thứ.
“Ví không duyên nợ kiếp xưa
Kiếp này hồ dễ tình cờ xui nên”
Kiều và Kim Trọng đã có duyên, thế mà duyên chỉ ngắn ngủi trong phút chốc, mà phận cũng chẳng có. Kiều chỉ có thể trách ‘phận sao phận bạc như vôi’, nhưng liệu nàng có thể làm gì? Người đời sợ cảnh ‘Lạc hoa hữu ý tùy lưu thủy/ Lưu thủy vô tình luyến lạc hoa’ hay ‘Mạc đãi vô hoa không chiết chi(7)’, nhưng mấy ai hiểu được ‘Chỉ thị đương thời dĩ võng nhiên (Một thuở đau lòng chữ nợ duyên). Kiều và Kim Trọng đã cùng nhau thề nguyền, cùng nâng chén ngọc, nhưng cuối cùng chỉ có thể thốt lên rằng ‘Ly loan biệt phụng kim hà tại?. Trò đùa dai của số phận, nó rình rập khắp mọi nơi, chuẩn bị vồ xé lấy ngươi bất cứ lúc nào.
Và Kiều đã phải khóc nấc lên – tiếng khóc nghẹn ngào và bất lực – tiếng khóc lột bỏ tất cả những lý trí, những mạnh mẽ, những kiên cường, thông minh sắc sảo mà nàng cố thể hiện ra.
“Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.”
Kiều không giống như Hồ Xuân Hương mà mỉa mai Tổng Cóc ‘Chàng Cóc ơi chàng Cóc/ Thiếp bén duyên chàng có thế thôi’. Chúng ta bất chợt nhận ra Kiều chỉ là một cô gái tuổi đôi mươi, yếu đuổi và mỏng manh đến thế nào. Nàng chỉ có thể phụ Kim Trọng – nàng không muốn phụ Kim Trọng, nhưng nàng biết làm sao bây giờ? Nàng dù dám ‘xăm xăm băng lối vườn khuya một mình’ để gặp tình quân, nhưng nàng vẫn chẳng dám phá vỡ hết thảy lề lối phong kiến – những lề lối đã ăn sâu vào nàng. Và Kim Trọng cũng chẳng phải kẻ có tiền có quyền để đủ sức bảo vệ nàng. Cả hai đều bất lực trước những bất hạnh do thứ mang tên xã hội phong kiến đẩy đến.
“Ba nghìn thế giới nha giết hết
Cùng quân cộng chẩm đáo bình minh”
Kiều có lẽ chỉ mong muốn như thế – ‘cùng quân cộng chẩm đáo bình minh’, nhưng chỉ tiếc, cả nàng và Kim Trọng đều muộn. Đoạn trích Trao duyên mở đầu cho cung đàn bạc mệnh của Kiều, mở đầu cho cuộc đời thứ hai của kiều – cuộc đời đầy những sóng gió, những trớ trêu, đau đớn, những nhơ nhuốc mà xã hội phong kiến đương thời có thể ập đến với một thiếu nữ thơ ngây, xinh đẹp, tài hoa. Nguyễn Du đã rất xuất sắc trong việc khắc họa Kiều với hai trạng thái đối lập – một Kiều sắc sảo và một Kiều yếu đuối, mất đi lý trí. Và có lẽ chỉ Nguyễn Du – một người cũng trải qua những năm tháng lưu lạc như Kiều, một người chịu đủ cảnh sang hèn bần quý – mới có thể thấu hiểu nàng đến vậy.
Phân tích đoạn trích “Trao duyên” trong Truyện Kiều của Nguyễn Du – Bài làm 2
Con người khi đứng trước sự lựa chọn của bên nghĩa bên tình thì rất khó lựa chọn. Tuy nhiên thì công đức sinh thành bao giờ cũng cao cả vậy cho nên nếu là một người con hiếu thảo yêu thương cha mẹ của mình thì dẫu cho tình yêu kia có đẹp đến mấy thì vẫn quyết định chọn chữ nghĩa để trả ơn bố mẹ. kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du đã chọn chữ “nghĩa” lớn lao ấy. Thế nhưng nàng vẫn muốn vù đắp cho tình cảm kia của mình. Vì thế nàng quyết định trao duyên cho em gái là Thúy Vân. Đoạn trích trao duyên thể hiện được tất cả những tâm trạng của Thúy Kiều khi trao duyên của mình cho nàng Thúy Vân.
Duyên là một thứ để cho con người ta gặp gỡ, để mà yêu nhau và nếu có phận thì sẽ có thể bên nhau đến trọn đời. Và đặc biệt cái duyên cái nợ là do ông tơ bà nguyệt se tơ kết tóc nối duyên. Thế nhưng ở đây Thúy Kiều đã như đoạt lấy cái quyền hành ấy mà để nối duyên của mình cho em. Nàng có duyên với chàng Kim Trọng nhưng lại không có phận vì thế cho nên nàng muốn nối duyên cho em. Vì trong thâm tâm nàng đó như một cái để nàng đền đáp những ân tình của chàng Kim mà chàng đã trao cho nàng. Trao duyên đi lòng nàng không khỏi đau xót vì tình yêu duy nhất và đầu tiên của nàng đã không thành. Phải chăng tình đầu là dang dở.
Với hai câu thơ đầu ta thấy được những hành động của Thúy kiều thật khác bình thường. Nàng như đang hạ thấp bản thân mình để cầu xin em, trao duyên nhưng cũng là cầu xin em giúp chị và chấp nhận:
“Cậy em em có chịu lời.
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Là một người chị đáng ra chẳng bao giờ phải cậy nhờ hay vái lạy em mình cả thế nhưng ở đây Kiều trao duyên hay chính là đang nhờ Thúy Vân thay mình đền đáp tấm chân tình với Kim Trọng. Những từ “cậy”, “ngồi lên”, “lạy”, “thưa” là những từ để chỉ thái độ kính trọng của người dưới đối với người trên thế mà ở đây bị xáo trộn. Thúy Kiều là chị nhưng lại phải lạy em cậy nhờ. Cái “cậy” kia mang ý nghĩa ép buộc Thúy Vân phải làm nhiều hơn là nhờ.
Nói là nhờ thì lại rất bình thường nhưng nói là cậy thì cái nhờ vả kia lại nặng hơn gấp bội. Dùng ngôn ngữ như thế tác giả có ý muốn nói đến sự cậy nhờ em của Thúy Kiều. Nàng thành khẩn giống như cầu xin em mình để đền đáp tình cảm cho chàng Kim.
Nàng cậy nhờ rồi nàng nói lên những lời tâm tư tình cảm của bản thân mình. Đó là những tâm sự tận sâu trong đáy lòng của nàng:
“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai. ”
Nàng như thể hiên được cái nỗi đau xót của bản thân mình khi tình duyên lỡ dở. Chính vì chữ hiếu mà nàng hi sinh chữ tình phụ chàng Kim. Và có lẽ thế nàng vừa đau xót cho thân mình vừa đau đớn cho cuộc tình dang dở. Chàng Kim ấy vẫn đang chịu tang nơi quê nhà không hề hay biết những chuyện nơi đây. Nàng chỉ mong Vân có thể nối duyên bù đắp những gì của mình vẫn còn dang dở. Chính vì thế mà Kiều mong Vân chấp nhận sự cậy nhờ của mình mà chắp mối tơ loan với chàng Kim Trọng. Sự ngậm ngùi ấy được phát ra từ những câu thơ trên. Dù cho là chị em nữa nhưng phải gượng ép trao đi thứ mình không muốn trao và thứ mà người ta không muốn nhận thì chẳng khác nào mất đi một thứ quý báu. Vân ngây thơ phúc hậu cũng chỉ biết là Thúy Kiều cậy nhờ mình chứ nào đâu hiểu hết được “ Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”. Vốn dĩ chữ tình và chữ hiếu không thể đặt lên bàn mà cân cho được.
Thúy Kiều vịn vào tình cảnh của gia đình hiện tại và thêm nữa là tình máu mủ ruột già. Điều đó càng làm cho Thúy Vân có muốn từ chối cũng không thể nào từ chối được:
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây!”
Rõ ràng cả hai chị em cùng đến tuổi xuân xanh đang tràn đầy sức sống của tuổi thanh xuân, tuổi biết yêu thương lấy một người nào đó. Vậy mà Kiều lại nói là tuổi xuân của Thúy Vân còn dài trong khi mình thì nào có khác đâu. Nói như thế để cho thấy Kiều như đã xác định được con đường mà nàng sắp phải đặt chân đến, không yên bình như những ngày tháng trước đây nữa mà sóng gió có thể mang cô đi bất cứ lúc nào. Kiều mong vân xót tình chị em máu mủ ruột già mà hãy chấp nhận lời thay chi làm trọn lời hẹn thề với chàng Kim. Nếu được như thế thì ngay cả khi những sóng gió kia bủa vây lấy nàng cướp nàng đi khỏi thế gian này. Mặc cho sang thế giới bên kia không còn nguyên vẹn thì Kiều cũng cảm thấy thơm lây cái sự hi sinh của em gái cho mình.
Khi đã trao duyên xong nàng như cảm thấy được những tâm trạng đang bủa vây đến nàng. Nàng đã hoàn thành xong cái đền đáp ơn nghĩa với Kim Trọng nhưng lòng lại thấy buồn vì vừa trao đi, mất đi một tình yêu đầu êm đềm dịu ngọt. Hơn nữa tình yêu ấy mới bắt đầu:
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”
Chiếc vành với tờ mây kia chính là những kỉ vật tình yêu của hai người. họ đã cùng nhau thề nguyền sống chết, họ đã có với nhau những ngày tháng hạnh phúc những niềm vui tràn ngập vậy mà giờ đây cái xã hội kia đã buộc Kiều chọn chữ hiếu mà hi sinh chữ tình. Nàng chỉ mong mai này khi chàng Kim và em của nàng có thành duyên vợ chồng rồi thì mong họ hãy nhớ đến nàng. Những kỉ vật tình yêu của nàng với chàng Kim chỉ mong tham lam giữ thành của chung của ba người. Dẫu đã trao cho Thúy Vân những kỉ vật ấy nhưng nàng vẫn luyến tiếc và mong rằng nó sẽ là của chung. Nguyễn Du không đặt những kỉ vật ấy vào trong cùng một câu thơ mà lại chia ra thành mấy câu thơ. Có lẽ làm như thế để cho chúng ta thấy được cảm xúc đau buồn của nàng Kiều khi phải trao lại những kỉ vật ấy một cách đầy luyến tiếc cho em gái mình. Nàng như cố níu giữ lấy những kỉ vật tình yêu thế nhưng nàng cũng buộc mình phải đưa cho Vân những kỉ vật ấy nếu không thì sẽ không thể nào mà đền đáp tấm ân tình của chàng Kim trọng được. Có thể nói qua những câu thơ trên tâm trang của thúy Kiều được hiện thật sự rất rõ nét. Đó chính là tâm trạng mong muốn trở lại những ngày tháng trước đây. Đồng thời luyến tiếc với những kỉ vật tình yêu ấy.
Kiều đau đớn như nghĩ đến cái chết, có lẽ là nàng tưởng tượng ra cảnh mai này Kim và vân sống hạnh phúc mà nàng phải chứng kiến cảnh yêu thương của họ thì nàng sống không bằng chết. Hay từ khi xác định bán thân nàng đã quyết định chọn cái chết để kết thúc cuộc đời này. Tuy vậy nàng vẫn mong rằng:
“Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rảy xin chén nước cho người thác oan”
Sự bất công của xã hội và sự mất đi tình yêu của Kiều sẽ khiến cho nàng cảm thấy thật sự đau oan khuất mà cứ vấn vương trên cõi trần không thể siêu thoát. Mai sau nếu thấy hiu hiu gió thì có thể cảm nhận là nàng đang về. Cơn gió kia thể hiện sự vương vấn cõi trần này của nàng. Lời thề với chàng Kim thì dẫu cho Kiều có nát thân liễu yếu thì cũng không thể nào đền đáp được cho chàng Kim. Khi ấy chỉ mong kim và Vân hãy rót một chén rượu cho người thác oan là Thúy Kiều. Có thể nói cuộc sống của con người ai mà chẳng sợ chết người ta nghĩ đến cái chết chỉ khi trong họ thật sự cảm thấy rất đau khổ không thể nào có thể chịu đựng được nữa thì họ mới dám nghĩ đến. kiều ý thức được nỗi đau trong mình, nàng như biết trước con dường mà nàng sắp đi khổ cực và gian truân đến mức nào. Cũng có thể chết bất cứ lúc nào.
Như vậy qua đây ta thấy được những tâm tư của nàng Thúy kiều. Tình đầu là thứ tình cảm thiêng liêng đẹp đẽ nhất, duyên phận vốn trớ trêu với con người. Chính vì thế chữ tình kia không trọn cho phận má đào. Cô không muốn chàng Kim đợi chờ mình mà mong rằng Thúy Vân em cô sẽ giúp cho anh có một cuộc sống hạnh phúc. Dẫu biết vậy nhưng nàng không khỏi đau khổ khi trao duyên.
Phân tích đoạn trích “Trao duyên” trong Truyện Kiều của Nguyễn Du – Bài làm 3
Đoạn thơ Trao duyên trong kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du là cái mốc đánh dấu sự mở ra một chặng đường đầy biến cố và đau thương của nàng Kiều với chuỗi ngày sống không bằng chết trong chốn nhơ nhuốc, hỗn loạn..Trao duyên chủ yếu thể hiện diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều từ mâu thuẫn dẫn đến chỗ ý thức được bi kịch. Đồng thời đoạn trích cho ta thấy rõ tấm lòng cũng như tài năng của Nguyễn Du trong việc miêu tả tâm lí nhân vật ở Truyện Kiều.
Ta có thể chia đoạn trích thành hai phần nhỏ nhằm thuận lợi trong việc phân tích và lam nổi bật diễn biến tâm trạng của “cô Kiều” đáng thương. Phần thứ nhất từ đầu đến câu: “Duyên này thì giữ, vật này của chung.” Phần thứ hai là phần còn lại.
Mở đầu đoạn thơ, người đọc bắt gặp cái băn khoăn, vướng mắc mà nàng Kiều đang rất bối rối, e ngại. Và rồi đó là sự thổn thức trong lòng buộc nàng phải thốt ra những lời mà ngay cả người đọc cũng cảm thấy mủi lòng huống hồ là em gái ngoan Thúy Vân của nàng…
Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Không thể chối cãi tài năng về ngôn từ của Nguyễn Du. Trong vốn từ vựng giàu có và đồ sộ của dân tộc ta, thật quá tài tình để chọn được một động từ diễn tả trọn vẹn cả ý và tình như từ “cậy” và “lạy” trong câu thơ này. Có rất nhiều băn khoăn rằng nên chăng Kiều chỉ cần “nhờ” em thôi, bởi từ “cậy” nó hơi “thái quá” khi Kiều là chị ruột Vân? Nhưng quả thật, trong trường hợp này của Kiều, việc nàng “cậy” em nó không chỉ đơn thuần là sự nhờ vả giúp đỡ nữa mà còn là sự tin tưởng, tin cậy đến mức tối đa mới có thể gửi duyên, trao phận được. Bởi Kiều tự thân ý thức được em mình cũng sẽ ngạc nhiên và khó có thể chấp nhận được việc mình sắp “cậy” nên nàng đã cương quyết, dứt khoát một lời rằng em có “chịu lời” thì “ Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”
Đương nhiên là Thúy Vân không thể không “nhượng bộ” chị mình rồi. Kiều bắt đầu kể lại sự tình cho em nghe.
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim ,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sòng gió bất kỳ,
Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?
Từng mộng cảnh, từng phút giây thần tiên khi nao bên Kim Trọng cứ chập chờn xuất hiện cùng với những nghẹn ngào khi nàng kể lại cho em gái tường mối “keo loan” mà nàng và Kim Trọng đã thề nguyền chắp kết… Chính bởi Kiều là người con gái hiếu thảo và hiểu chuyện nên sự mâu thuẫn “bên tình bên hiếu, bên nào trọng hơn” trong lòng nàng mới đạt mức đại như vậy. Ta có thể hình dung được khung cảnh hai nàng Kiều nghẹn ngào trong đêm. Họ thật đáng thương, cả kẻ nhận duyên lẫn người trao duyên. Hoàn cảnh gia đình khắc nghiệt bởi cơn tai họa bất ngờ đã đẩy hai phận “liễu yếu đào tơ” đang độ “xuân xanh đến tuổi cập kê” đến bờ khốn khổ mà đặc biệt là người chị cả Thúy Kiều. Những bộc bạch từ đáy lòng của Thúy Kiều khiến ta không khỏi xót xa:
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Chiếc thoa với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
“Ngày xuân em hãy còn dài”, thật mâu thuẫn ở đây bởi hai chị em cùng xuân xanh vậy mà lời của Kiều như của một bà lão! Thực chất, Kiều đã dự đoán được phần nào sự khốn khổ, trái ngang của con đường phía trước đang đợi mình: thịt nát xương mòn, ngậm cười chín suối. Cười nơi chin suối mà phải thầm kín “ngậm cười” với sự “thơm lây” của duyên em cùng chàng nơi trần thế. Sự bình tĩnh khi kể về quãng thời gian êm đẹp cùng Kim Trọng bao nhiêu thì đến lúc trao kỉ vật cho Thúy Vân , Kiều lại tức tưởi, không đành lòng bấy nhiêu.
Chiếc thoa với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung
Kiều thật tội nghiệp biết bao!
Mâu thuẫn trong lòng Kiều dần chuyển sang sự ngậm ngùi chấp nhận sự thật khắc nghiệt. Phần hai khắc họa rõ sự ý thức bi kịch ấy của Kiều. Càng nói càng lắm tâm sự, dường như màn đêm không dứt với hai chị em, muốn kéo dài để cho Kiều được nói cho thỏa nỗi lòng nàng, những tâm sự ngổn ngang cùng với sự lưu luyến dư âm mối tình đẹp tựa ngàn hoa. Kiều nghẹn ngào trong từng tiếng nấc:
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên!
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ gió cây,
Thấy hiu hiu gió, thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt, khuất lời,
Rảy xin chén nước cho người thác oan.
Bây giờ trâm gãy bình tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trong phần thơ này, người đọc có thể cảm nhận được ngay cái u uất, buồn trĩu lòng của Thúy Kiều. Cái hình ảnh: người bạc mệnh, hồn mang nặng lời thề, nát thân bồ liễu mà Kiều dung để ám chỉ chính bản thân mình cho thấy nỗi tuyệt vọng trong lòng nàng về tình yêu với chàng Kim. Có một sự mâu thuẫn với lời trước: “ Chị dù thịt nát xương mòn. Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.” vậy mà ngay sau đó, Kiều đã tự họa cho mình những thảm cảnh trong tương lai… Chính bở diễn biến tâm lí của nàng đã dẫn đến sự tưởng như mâu thuẫn mà lại rất hợp tình ấy. Vẫn biết là báo hiếu cha mẹ nhưng làm sao có thể bắt một cô gái đương độ xuân xanh chặt đứt những mầm yêu đương mà không hề oán thán, than trách được? Kiều cũng đâu đổ lỗi tại ai đâu? Nàng tự thương cho cái mệnh bạc của mình đấy chứ!
Ta cũng có thể tách sau câu thơ sau thành một phần, nó không chỉ là lời thảng thốt của Kiều với em trong đêm thâu mà còn là một tiếng nấc nghẹn gọi Kim Trọng, chăng chối với chàng:
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
Phân sao phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
Đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, Kiều tự cho mình đã “phụ chàng” Kim bởi dù có là một cơn “gió hiu hiu” nhưng hồn nàng vẫn mãi mang nặng một lời thề nguyền với chàng. Tâm trạng tôi lỗi đã khiến Kiều ngất đi trong tiếng than thấu tận trời xanh:
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
Người biên soạn sách giáo khoa thật tài tình trong việc đặt nhan đề cho trích đoạn này bởi cái cảnh Trao duyên nó nào được diễn ra trong không khí lãng mạn, phấn khởi , vui tươi, tràn trề hi vọng vào một tương lai gắn bó như trong các câu ca dao ngọt ngào hay trong các lễ hội tưng bừng? Sự trao ở đây với Thúy Kiều đồng nghĩa với việc nàng phải chấp nhận từ bỏ mối duyên đầu bao đắm say với Kim Trọng để cứu cha và em… Nhường lại tình yêu đó cho em gái, xót xa thay cho Thúy Kiều, người đời “ Ép dầu ép mỡ ai nỡ ép duyên…” vậy mà nàng phải nhường em tình yêu! Đoạn thơ là một cuộc khủng hoảng tinh thần tưởng như có thể vỡ tan tành trái tim bé bỏng của nàng Kiều. Tài năng và tấm lòng Nguyễn Du đã được thể hiện phần nào trong trích đoạn cảm động tình thân, tình yêu này.
Phân tích đoạn trích “Trao duyên” trong Truyện Kiều của Nguyễn Du – Bài làm 4
Cuộc đời của con người tài sắc Thuý Kiều từ khi gia đình có tai biến đã trải qua nhiều giai đoạn. Mỗi giai đoạn được ghi dấu bằng một niềm đau. Trong Truyện Kiều, có thể nói “trao duyên” là niềm đau lớn nhất. Bởi với Thuý Kiều, trao duyên – dù cho chính em gái mình – cũng nghĩa là hết. Phải chọn tình hay hiếu, Thuý Kiều có băn khoăn nhưng không oán hờn bởi nàng biết và nàng hiểu “làm con trước phải đền ơn sinh thành”. Nhưng khi phải từ bỏ lời thề vàng đá, Thuý Kiều đã day dứt và day dứt suốt đời.
Trong Truyện Kiều, đoạn Trao duyên có vai trò như một cái bản lề khép mở hai phần đời đối lập của Kiều : hạnh phúc và đau khổ. Không những thương, Vân còn rất hiểu lòng Kiều. Có lẽ vì vậy mà sau đó, chuyện tình duyên khó trao, khó nhận nhưng Vân đã bằng lòng với nỗi niềm cảm thông mà chẳng nói thêm gì (có ý kiến cho rằng : Thuý Vân chỉ biết bằng lòng vì lời nói rất đỗi thuyết phục của Thuý Kiều).
Chỉ chờ có vậy, Thuý Kiều đã mở đầu câu chuyện mà đáng lí ra chẳng ai nói đến bao giờ :
“Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Nghe xong Thuý Vân chắc sẽ rất bất ngờ. Lời chị khẩn khoản, thiết tha chắc không thể chỉ là chuyện bình thường. Trong nhóm các từ biểu đạt sự nhờ vả, Nguyễn Du đã chọn được hai từ đắt nhất và cũng hợp với hoàn cảnh nhất : cậy và chịu. Cậy không chỉ là nhờ. Cậy còn là trông đợi và tin tưởng. Cũng vậy, chịu không chỉ là nhận lời, chịu còn là nài ép. Chuyện chưa nói ra nhưng Kiều biết người nhận không dễ dàng chịu nhận nên nàng đã chủ động đưa Vân vào thế khó xử, tiến thoái lưỡng nan. Lời xưng hô nghiêm cẩn và trang trọng của Thuý Kiều lại càng có tác dụng gây áp lực đối với Thuý Vân.
“Chọn” và “đặt vấn đề” một cách nhanh chóng và kĩ càng, Thuý Kiều dường như ngay lập tức tiếp lời như nếu để lâu sẽ không thể nào nói được :
“Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”
Vậy là cái điều tưởng như khó nhất, Thuý Kiều đã nói. Thuý Vân hết sức ngỡ ngàng nhưng cũng nhanh chóng hiểu nỗi niềm của chị. Đoạn thơ ngắn gọn, hướng vào những chuyện riêng tư. Tình yêu dở dang, tan vỡ được thông tin ngắn gọn trong một thành ngữ nặng nề, chắc nịch (đứt gánh tương tư). Câu thơ thứ 4 lại hay ở hai chữ tơ thừa. Với Thuý Kiều, tình yêu chưa thể coi là đã đủ mặn mà nhưng với em (Thuý Vân) nó chỉ là sự nối tiếp. Lời Kiều sâu sắc và cũng thật xót xa.
Những câu thơ tiếp điểm qua những biến cố đời Kiều. Những biến cố ấy, Thuý Vân đều chứng kiến, thấu hiểu và cảm thông “khi gặp gỡ chàng Kim” và cả “khi sóng gió bất kì”.
Tám câu thơ đầu, ngoài lời trao duyên, Thuý Kiều chủ yếu nói về những bất hạnh của mình. Nh-ng để trao duyên, Thuý Kiều còn phải chọn những lời lẽ thuyết phục :
“Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”
Đoạn thơ sử dụng nhiều thành ngữ, lời lẽ ý vị, kín đáo, vẹn tình. Người “nhận” có ba lí do để không thể khước từ. Trước hết, không cách nhau nhiều về tuổi tác nhưng phải nhắc đến hai chữ ngày xuân với Kiều sao giờ quá nặng nề. Rõ ràng xét về ngày xuân (hiểu là sự trong trắng tinh khôi) thì giờ đây Thuý Kiều đâu thể xứng đáng với Kim Trọng bằng Thuý Vân. Kiều dù sao cũng mang danh là đã có chồng. Lí do thứ hai lại càng thuyết phục hơn. Kiều đang nhờ Vân một điều mà chẳng ai nhờ vả bao giờ. Đã khó nhờ, khó nhận thì vả chăng chỉ có là tình chị em máu mủ mới dễ đồng cảm, để rồi “chấp nhận” cho nhau. Lí do thứ ba nghe sao như một lời khẩn cầu đầy chua xót :
“Chị dù thịt nát xuơng mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”
Không hẳn là lí do nhưng lại hoàn toàn hợp lí. Câu thơ khẩn cầu như một lời trăng trối. Và có ai lại đang tâm từ chối ước nguyện của người thân sắp phải thuộc về hoàn cảnh bấp bênh, khôn lường bất trắc ? Người ta nói Nguyễn Du là người sâu sắc nước đời là ở những chỗ như vậy.
Duyên đã được trao, người “nhận” cũng không có lí do gì để từ chối. Thuý Kiều trao kỉ vật cho em :
“Chiếc vành với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ, vật này của chung”
Thuý Kiều mất bao công sức để thuyết phục Thuý Vân nhưng chính lúc Thuý Vân chấp nhận thì cũng là lúc Thuý Kiều bắt đầu chới với để cố níu mình lại với tình yêu. Duyên đã khó trao, tình làm sao trao được ? Tìm về với những kỉ vật thiêng liêng (chiếc vành, bức tờ mây, mảnh hương nguyền) cũng là để được về với tình yêu của nàng. Những kỉ vật đẹp đẽ đó gắn liền với những ngày đẹp nhất đời Kiều. Nó thiêng liêng khi nó chỉ là của riêng nàng và Kim Trọng. Tình yêu không có người thứ ba, khi có người thứ ba, sự thiêng liêng bắt đầu đổ vỡ. Câu thơ “Duyên này thì giữ vật này của chung” thể hiện tâm trạng của Kiều xiết bao đau đớn. Tình yêu và niềm tin đối với Thuý Kiều giờ đây đã hoàn toàn trượt mất.
Cố níu kéo tình yêu bằng kỉ vật (dù chỉ trong tâm tưởng), Thuý Kiều đành ngậm ngùi đau xót nghĩ về tương lai :
“Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”
Thuý Kiều như chìm trong tê dại, mê man trong cảm giác xót xa. Nhưng ngay trong lúc tưởng chừng như đã hoàn toàn cách biệt âm dương thì lời thề vàng đá của Kiều vẫn không hề thay đổi :
“Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai”
Tìm về tình yêu bằng cảm giác từ cõi tâm linh, Thuý Kiều vẫn không quên nghĩ về sự tủi hổ, bất hạnh của mình :
“Dạ đài cách mặt khuất lời,
Rảy xin chén nước cho người thác oan”.
Đoạn thơ cuối là cảm giác trở về của Thuý Kiều từ cõi hư không. Thời gian không còn là thời gian tâm trạng, nó là thời gian khách thể. Trở về với hiện thực, Thuý Kiều xót xa chấp nhận sự phũ phàng của định mệnh, chấp nhận “trâm gãy bình tan”, “tơ duyên ngắn ngủi”, “phận bạc như vôi”. Đoạn thơ dùng nhiều thành ngữ để nói tới cái “nhất thành bất biến” không thể thay đổi, chuyển dời. ý thức về hiện tại, Kiều chỉ còn biết thương mình, oán hờn số phận. Ngay trong lúc tưởng chừng Kiều sẽ buông xuôi, thì suy nghĩ của nhân vật lại rẽ sang hướng khác :
“Ôi Kim lang ! Hỡi Kim lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”
Câu thơ thực chất là tiếng kêu thảng thốt, là tiếng nấc nghẹn ngào của người con gái đã hoàn toàn tuyệt vọng.
Thuý Kiều sau đó xa cách Kim Trọng mười lăm năm nhưng trong mười lăm năm ấy không lúc nào nàng nguôi nhớ đến mối tình đầu. Song có lẽ không cần phải đợi đến mười lăm năm. Ngay trong ngày phải đau đớn “trao duyên”, người đọc có thể thấy tình yêu trong lòng người con gái ấy không gì có thể chia cắt nổi.
Đoạn trích bộc lộ nỗi đau, tình yêu và số phận bi kịch của Kiều. Qua nghệ thuật miêu tả nội tâm tài tình của Nguyễn Du, nỗi đau và vẻ đẹp tâm hồn của nàng Kiều – người con gái tài sắc, tình nghĩa vẹn toàn – đã được thể hiện một cách tinh tế và toả sáng lấp lánh.
Phân tích đoạn trích “Trao duyên” trong Truyện Kiều của Nguyễn Du – Bài làm 5
Đoạn trích Truyện Kiều này có nhan đề “Trao duyên” gồm 34 câu (từ câu 723 đến câu 756) được in trong sách giáo khoa môn Văn lớp 10. Đây là một trong những đoạn thơ mở đầu cuộc đời lưu lạc đau khổ của Thúy Kiều. Khi Vương Ông và Vương Quan bị bắt do có kẻ vu oan, Thúy Kiều phải bán mình cho Mã Giám Sinh để lấy tiền đút lót cho quan lại cứu cha và em. Đêm cuối cùng trước ngày ra đi theo Mã Giám Sinh, Thuý Kiều nhờ cậy Thuý Vân thay mình trả nghĩa, lấy Kim Trọng.
Nhan đề đoạn trích là Trao duyên nhưng trớ trêu thay đây không phải là cảnh trao duyên thơ mộng của những đôi nam nữ mà ta thường gặp trong ca dao xưa. Có đọc mới hiểu được, “Trao duyên”, ở đây là gửi duyên, gửi tình của mình cho người khác, nhờ người khác chắp nối mối tình dang dở của mình. Thúy Kiều trước phút dấn thân vào quãng đời lưu lạc, bán mình cứu cha, nghĩ mình không giữ trọn lời đính ước với người yêu, đã nhờ cậy em là Thúy Vân thay mình gắn bó với chàng Kim. Đoạn thơ không chỉ có chuyện trao duyên mà còn chất chứa bao tâm tư trĩu nặng của Thúy Kiều.
Dựa vào cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Nguyễn Du đã dựng lại tình tiết trao duyên thật sống động. “Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân” thì thấy chị mình đang thổn thức giữa đêm khuya. Vân ghé đến ân cần hỏi han. Thúy Kiều thật là khó nói, nhưng “để lòng thị phụ tấm lòng với ai”. Thương cha, nàng bán mình, thương người tình, nàng đành cậy em:
“Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”
Trong dãy từ diễn tả khái niệm nhờ, Nguyễn Du đã chọn từ “cậy”, tuyệt vời chính xác. Từ “cậy” hàm chứa niềm tin mà người được nhờ không thể thoái thác được. Lại thêm một cử chỉ thiêng liêng là “lạy”. Thuở đời chị lại lạy sống em bao giờ! Mà chỉ để trao duyên. Mối tình với chàng Kim sâu nặng biết chừng nào, thiêng liêng biết chừng nào! Trong nước mắt, giữa đêm khuya, Thúy Kiều đã kể lể sự tình cho cô em nghe:
“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”
Thúy Kiều đã kể nhanh những sự kiện mà Thúy Vân cũng đã chứng kiến. Chuyện gặp chàng Kim trong buổi chiều thanh minh. Chuyện kể nguyền hẹn ước với Kim Trọng. Chuyện sóng gió của gia đình. Nhưng có một chi tiết mà đối với cái trí bình thường của Thúy Vân không bao giờ biết được:
“Hiếu tình khôn dễ hai bề vẹn hai”
Qua lời Thúy Kiều, Nguyễn Du đay nghiến cả một xã hội. Hiếu – tình là hai giá trị tinh thần không thể đặt lên bàn cân được. Một xã hội bắt con người phải lựa chọn những giá trị không thể lựa chọn được thì xã hội đấy là một xã hội tàn bạo. Thúy Kiều đã cay đắng lựa chọn chữ “hiếu”. Mà chỉ có ba điều tồn tại: “Đức tin, hi vọng và tình yêu, tình yêu vĩ đại hơn cả”. Nghe một lời trong Kinh Thánh như vậy, chúng ta càng thấm thía với nỗi đau của nàng Kiều.
Cho nên hy sinh chữ tình, nàng Kiều coi như không tồn tại trên cõi đời này nữa. Mỗi lời của nàng không phải là nước mắt mà là máu đang rỉ ra trong lòng.
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”
Hai chị em đều “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” vậy mà nàng nói “ngày xuân em hãy còn dài” đau đớn biết chừng nào! Lời lẽ thiêng liêng của nàng là vì lo cho Kim Trọng, mong sao cho chàng Kim có hạnh phúc trong tan vỡ. Trong đau khổ tuyệt vọng, nàng còn biết lo cho hạnh phúc của người khác. Thật là một cô gái có đức hi sinh lớn lao.
Biết là em thuận lòng, nàng trao cho em những kỷ vật giữa nàng và chàng Kim:
“Chiếc thoa với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung”
Tình cảm dẫu sao vẫn còn trừu tượng, chứ kỷ vật của tình yêu thì cứ hiển nhiên hiện ra đó, cho nên Thúy Kiều trao “chiếc thoa với bức tờ mây” cho em thì nàng cũng đau đớn đến tột độ. Mỗi lời của nàng nặng như chì, nàng trao duyên, trao cả những kỷ vật tình yêu cho em. Cái xã hội bắt con người phải chung cả cái không thể chung được thì có đáng ghét không, có đáng nguyền rủa không? Đấy chính là lời tố cáo vọng đến thấu trời của Nguyễn Du đối với xã hội đã chà đạp lên hạnh phúc của con người.
Thúy Kiều trao duyên là coi như mình đã khuất. Nàng dặn em giữ gìn kỷ vật và còn dặn em hãy thương lấy linh hồn vật vờ đau khổ của chị trên cõi đời đen bạc này:
“Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tờ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai.”
Thúy Kiều tưởng tượng nàng chỉ còn là bóng ma. Lời lẽ huyền hồ. Bóng ma nàng sẽ hiện lên trong hương trầm và âm nhạc. Hồn ma còn mang nặng lời thề với Kim Trọng, cho nên dẫu “thịt nát xương mòn” thì hồn nàng vẫn còn quanh quẩn với “ngọn cỏ lá cây”, với “hiu hiu gió…” Tình của người bạc mệnh vẫn còn làm chấn động cả vũ trụ.
Đau đớn tột cùng trước sự đổ vỡ của tình yêu, nàng quên rằng trước mặt mình là Thúy Vân mà than khóc với Kim Trọng:
“Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.”
Mỗi lời của nàng là một lời vận vào. Trước nỗi đau đớn xót xa này, nàng chỉ trách mình là “phận bạc”, là “hoa trôi”, những hình ảnh đó làm động lòng thương đến hết thảy chúng ta. Đối với Kim Trọng, nàng còn mặc cảm tội lỗi là chính nàng đã “phụ chàng”. Chính tâm lý mặc cảm tội lỗi cao thượng đó khiến nàng chết ngất trong tiếng kêu thương thấu trời:
“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Đoạn “Trao duyên” trong “Truyện Kiều” là một khúc “đoạn trường” trong thiên “Đoạn trường tân thanh”. Với con mắt tinh đời, Nguyễn Du đã phát hiện thấy trong truyện của Thanh Tâm Tải Nhân là một tình tiết rất cảm động và bằng nghệ thuật tuyệt vời, ông đã dựng lại đoạn “Trao duyên” hết sức sâu sắc và độc đáo. Tác giả đã đối lập hai tính cách của hai chị em một cách tài tình: con người của đời thường và con người của phi thường. Trong sự kiện “sóng gió bất kì” này, Thúy Vân vô tư, hồn nhiên (cũng đừng vội chê trách Thúy Vân. Nhân vật này còn là một kho bí mật trong công trình nghệ thuật kiệt tác của Nguyễn Du mà chúng ta chưa kịp bàn ở đây), còn Thúy Kiều thì lại càng đau đớn hơn.
Nguyễn Du đã dụng công miêu tả tâm lý, sự vận động nội tâm nhân vật, cũng có thể nói Nguyễn Du đã đạt đến phép biện chứng của tâm hồn. Chỉ qua đoạn “trao duyên”, chúng ta cũng cảm nhận được Thúy Kiều là một cô gái giàu tình cảm, giàu đức hi sinh, có ý thức về tình yêu và cuộc sống. Một nhân cách như vậy mà vừa chớm bước vào đời như một bông hoa mới nở đã bị sóng gió dập vùi tan tác. Nói như Mộng Liên Đường Chủ nhân là khúc đoạn trường này như có máu rỏ trên đầu ngọn bút của Nguyễn Du, như có nước mắt của thi nhân thấm qua trang giấy. Hơn hai trăm năm rồi, những giọt nước mắt nhân tình ấy vẫn chưa ráo?
Từ khóa tìm kiếm nhiều:
- Phân tich đoan trich Trao duyên
- phân tích bài trao duyên
- phan tich trao duyen
- phân tích bài thơ trao duyên
- phan tich doan trich trao duyen