Bình giảng bài thơ “Tống biệt hành” của Thâm Tâm – Bài làm 1
Thâm Tâm làm bài thơ Tống biệt hành vào năm 1940 để tiễn một người bạn ra đi theo chí lớn. Có thể coi đây là một trong những bài thơ hay nhất của trào lưu Thơ mới. Trước hết là nhan đề bài thơ. Tống biệt là tiễn đưa, hành là một thể thơ cổ điển của Trung Quốc vừa trữ tình vừa tự sự, hình thức tương đối tự do, không theo niêm luật chặt chẽ như thơ Đường. (Ví dụ: Tì bà hành). Tống biệt hành viết về cuộc tiễn đưa và tình li biệt. Nó mang dáng dấp của một bài thơ cổ, phảng phất dư âm ngàn xưa. Đề tài tuy không mới nhưng cách diễn đạt thì hết sức độc đáo. Đây là cuộc chia tay của một người trai nặng lòng hiếu thảo nhưng phải giã từ gia đình ra đi theo nghĩa lớn. Bài thơ vừa thể hiện tình cảm lưu luyến trong các cuộc tiễn biệt đương thời, vừa tiêu biểu cho các cuộc chia li muôn thuở.
Bài thơ có hai nhân vật: người tiễn và người đi. Tình cảm của người đi có lúc biểu hiện qua tâm trạng của người tiễn. Từ câu đầu đến câu cuối của bài thơ đều nhằm miêu tả diễn biến phức tạp của tâm trạng người đi. Tâm trạng ấy chỉ có người đưa tiễn là tri kỉ mới cảm thông và thấu hiểu:
Đưa người, ta không đưa qua sông,
Sao có tiếng sóng ở trong lòng ?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong ?
Đưa người, ta chỉ đưa người ấy,
Một giã gia đình, một dửng dưng…
Khổ thơ miêu tả tình người ra đi và tình người ở lại. Hai câu thơ trên là nỗi lòng người đưa tiễn được diễn tả bằng tiếng sóng ở trong lòng (âm thanh). Hai câu thơ sau là tâm sự người ra đi được thể hiện bằng hoàng hôn trong mắt trong (hình sắc). Khung cảnh ở đây rất bình thường, không hề có động thái gì can thiệp đến tình người. Khác hẳn quan niệm xưa trong văn chương: Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ, vậy mà nỗi buồn chia phôi đều có đủ.
Đưa người, ta không đưa qua sông, câu thơ toàn thanh bằng tạo nên âm hưởng bâng khuâng, xao xuyến, giống như lời lòng tự hỏi lòng của người đưa tiễn. Cách xưng hô ta với người khiến cuộc tiễn đưa mang khí vị xưa. Cuộc chia tay này không diễn ra trên bến sông nên không có sóng làm tác nhân gợi nỗi buồn li biệt, nhưng cái tiếng sóng của các cuộc biệt li bên sông nước ước lệ trong văn chương từ ngàn xưa đã ngấm vào tâm hồn tác giả, để rồi chính nhà thơ cũng ngạc nhiên khi trong cái không (không đưa qua sông) lại nổi lên cái có (có tiếng sóng ở trong lòng). Ở câu thứ hai, mấy vần trắc liền nhau gợi liên tưởng như có tiếng sóng thật ở trong lòng và nghe trong tiếng sóng dường như có cả hơi lạnh của gió sông.
Sự ra đi của một con người dám trả lời không cho cuộc đời bình an của bản thân và gia đình, dám đánh đổi cuộc sống ấy lấy gian khổ, hi sinh, đó là khí phách. Tiễn đưa con người có khí phách như thế, kẻ ở lại làm sao không nổi sóng ở trong lòng
?! Những cơn sóng âm thầm nhưng là sóng cảm phục, sóng thương yêu. Cái hay của Thâm Tâm là đã miêu tả nội tâm bằng chính nội tâm của nhân vật trữ tình.
Buổi chiều chia tay cũng bình thường như bao chiều khác, không có gì đặc biệt: Bóng chiều không thắm, không vàng vọt nhưng hoàng hôn lại đọng đầy trong mắt kẻ ra đi. Hoàng hôn trong mắt là buồn và lo, là nhớ thương, lưu luyến khi tiễn biệt. Ở câu thơ này nó còn có một ẩn ý khác. Đó là sự tương phản giữa ngoại cảnh và nội tâm, giữa dáng vẻ bề ngoài và diễn biến tâm trạng giằng xé bên trong của người đi.
Buổi chiều chưa nhạt nắng (Bóng chiều không thắm không vàng vọt), vậy mà hoàng hôn đã vội buông đầy trong mắt trong. Bề ngoài người đi tỏ ra bình thản nhưng đây là thái độ lạnh lùng thực sự hay chỉ là sự ghìm nén bao cảm xúc dang trào dâng trong lòng? Người ra di cố cưỡng lại tình cảm nhưng tình cảm vốn tự nhiên nên nó vẫn cứ dâng trào. Nỗi buồn li biệt dù che giấu kín đáo đến mấy vẫn hiện ra. Người bạn tri ki đã thấy rõ bỏng hoàng hôn trong mắt trong của người đi.
Khổ thơ đượm một nỗi buồn nhưng nỗi buồn ấy là tình cảm tự nhiên và trong sáng. Để thể hiện, Thâm Tâm đã sử dụng những hình ảnh đẹp vừa mang phong vị cổ điển, vừa có phần sáng tạo riêng rất hiện đại: sóng lòng, hoàng hôn trong mắt… và từ ngữ giàu khả năng gợi tả. Bên cạnh đó là nghệ thuật phối hợp âm thanh cũng như đặt lời thơ trong Ồm diệu nghi vấn: sao có tiếng sóng, sao đầy hoàng hôn… để thể hiện cảm xúc xao xuyến, bồi hồi. Đây là đoạn thơ hay và đẹp của bài thơ.
Vậy người ra di là ai mà buổi chia li quyến luyến và nặng tình đến thể?
Đài thơ lặp lại bảy lần từ người: đưa người, đưa người, đưa người, người buồn, người buồn, người đi, người đi nhưng vẫn chưa giúp ta hiểu gì về người đó. Ta chỉ biết người ra đi có một gia cảnh thật khó khăn: mẹ thì già, hai người chị luống tuổi muộn chồng, em còn thơ dại. Là con trai lớn, lẽ ra anh phải ở nhà chăm sóc mẹ già, giúp đỡ các chị, dạy bảo em thơ thì mới thuận cảnh, thuận tình. Nhưng là một nam nhi ôm mộng lớn, mơ nghiệp lớn, anh rơi vào mâu thuẫn giữa tình nhà và chí lớn, giữa bổn phận và khát vọng. Khát vọng giục anh lên đường, bổn phận níu anh ở lại. Là một trang nam nhi nên anh phải ra đi. Để có thể ra đi, anh phải dùng cả lí trí và ý chí để dằn lòng, để tự lí giải, biện hộ cho cuộc ra đi của mình. Con người không tên tuổi nhưng quyết ra đi ấy là chủ thể trữ tình của bài thơ.
Bài thơ có hai nhân vật nhưng chỉ có một tâm trạng. Người tiễn chỉ biết có người đi: Đưa người, ta chỉ đưa người ấy. Câu thơ cho ta thấy tuy đã xác định cho mình nỗi đau chia biệt nhưng người tiễn vẫn cứ ngỡ ngàng, thảng thốt. Ra đi là chưa biết bao giờ trở lại nhưng người ra đi có thái độ: Một giã gia đình, một dửng dưng. Tuy cố tỏ ra mạnh mẽ, dứt khoát nhưng trong lòng vẫn không khỏi vấn vương. Vì thế mà phải tự động viên:
Li khách! Li khách! Con đường nhỏ,
Chí nhớn chưa về bàn tay không,
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm, mẹ già cũng đừng mong.
Li khách là từ sáng tạo độc đáo của riêng Thâm Tâm dùng để gọi người đi với thái độ trân trọng. Nó làm cho người đọc nhớ đến hình ảnh của Kinh Kha: Nhất khứ hề bất phục hoàn (một đi không trở lại) trong thơ cổ điển Trung Hoa. Người ra đi phải chấp nhận hi sinh tình nhà và hi sinh bàn thân vì nghĩa lớn.
Chí nhớn mà đường nhỏ. Con đường nhỏ là con đường mới mở, gập ghềnh, đầy nguy hiểm. Cuộc đi chưa thấy có hứa hẹn gì cho việc xây nên nghiệp lớn ngoài sự háng hái tinh thần.
Ra đi là để thực hiện chí nhớn. Xông pha vào chốn hiểm nguy là cầm chắc khó khăn, gian khổ, nhưng người đi đã tự xác định lập trường bằng bao chữ không: không bịn rịn gia đinh, là dửng dưng, nhằm vào con đường nhỏ kia mà đi, không xong chi nhớn thì không nói trở lại quê nhà, dù Ba năm, mẹ già cũng đừng mong. Cho nên cái Chí nhớn chưa về bàn tay không ấy nó thiêng liêng, xúc động nhưng cũng thoáng chút ngậm ngùi, thương cảm.
Còn đối với chị em trong gia đình thì tình cảm của người ra đi như thế nào?
Ta biết người buồn chiều hôm trước,
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt,
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót.
Ta biết người buồn sáng hôm nay,
Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay,
Em nhỏ ngây thơ, đôi mắt biếc
Gói trộn thương tiếc chiếc khăn tay…
Người ra đi có vẻ hào hùng, hăng hái nhưng thật ra là buồn; buồn từ chiều hôm trước, buồn đến sáng hôm nay. Chia tay cuối mùa hạ, trong ao lác đác mấy đóa sen nở muộn. Hai chị gạt dòng lệ sót để khuyên em. Chữ sót thể hiện tình chị thương em và cho thấy hết nỗi nhọc nhằn trong đời chị. Buổi tiễn đưa: Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay. Em nhỏ nhìn anh với đôi mắt biếc mà lặng thầm gói tròn thương tiếc trong chiếc khăn tay.
Người ra đi trong chí lớn, trong quyết tâm nhưng vẫn dành cho mẹ già, cho các chị, cho em nhỏ những tình cảm tha thiết nhất, dù cố nén vào trong. Hai chị như sen cuối hạ, vẻ đẹp đã tàn phai. Một chị, hai chị là đếm sen mà nghĩ đến phận chị. Câu thơ nói tắt, tạo được ý lạ. Còn câu: Bây giờ mùa hạ sen nở nốt, đọc qua một lần thấy không liên kết vào đâu (cũng giống như câu: Giời chưa mùa thu tươi lắm thay), vì mạch thơ đang tả tâm trạng lại nói đến chuyện sen nở. Tuy vậy những chi tiết bất ngờ đó đã được khai thác và hoà nhập vào mạch thơ. Hình ảnh mùa hạ sen nở nốt đã dẫn đến liên tưởng Một chị hai chị, cũng như sen. Tương tự như thế, ở đoạn dưới, hình ảnh Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay cũng liên quan đến đôi mắt biếc của đứa em nhỏ ngây thơ.
Mẹ thì già, hai chị thì lận đận, em thì còn nhỏ… Gia cảnh ấy đủ làm nhụt chí người đi, tưởng chẳng thể nào đi được. Thế mà: Người đi? ừ nhỉ, người đi thực! Hai chữ ừ nhỉ thể hiện nỗi thẫn thờ, nuối tiếc. Mở đầu bài thơ, viêc ra đi đã xác định rõ, sao đến cuối bài còn như vậy? Ấy là người đưa tiễn vẫn cứ hi vọng tuy rất mong manh là đến phút cuối, cuộc ra đi sẽ không thành. Niềm hi vọng này không được nói ra vì mọi sự chuẩn bị tâm lí đều dành cho sự ra đi. Nhưng sự ra đi ấy vẫn cứ gây ra cảm xúc thảng thốt không ngờ. Hai chữ ừ nhỉ lại cả cái chí nhớn, một đi không trở tại ở trên, khiến cho sự ra đi trở thành việc bất đắc dĩ ở lại thì bế tắc nhưng ra đi cũng chưa thấy gì tươi sáng. Mấy câu thơ cuối kết tụ nỗi buồn trong lòng cả kẻ ở lẫn người đi:
Mẹ thà coi như chiếc lá bay,
Chị thà coi như là hạt bụi,
Em thà coi như hơi rượu say.
Mỗi câu thơ nhắc đến một đối tượng: Mẹ, chị, em nhưng đều là một phần máu thịt, một phần linh hồn của người đi. Điệp ngữ thà coi như nhắc lại ba lần, mỗi lần đi liền với một ẩn dụ so sánh: chiếc lá bay, hạt bụi, hơi rượu say là những thứ tồn tại mà như không tồn tại. Người ra đi coi mình là không đáng kể. So sánh như thế là để an ủi người thân và khẳng định thêm quyết tâm ra đi.
Người ra đi đã đi thật rồi, mọi điều quyến luyến vấn vương coi như chấm dứt. Người đi sẽ nhẹ lòng, người ở lại rồi cũng sẽ nguôi ngoai, cấu trúc ba câu thơ lặp lại cùng một âm điệu gần như dứt khoát, không thể khác được, tưởng như là tiếng khóc muốn vỡ òa mà cố cắn răng kìm nén để không bật lên thành tiếng của hai người bạn thân thiết trong phút chia tay.
Chi vì ôm ấp hoài bão lớn mà người ra đi chấp nhận sự chọn lựa nghiệt ngã giữa khát vọng và bổn phận, chứ đâu phải anh là kẻ có trái tim vô cảm, sắt đá! Tất cả những éo le ngang trái của cảnh ngộ, quy luật khắc nghiệt của đời thường, nỗi buồn thương ngậm ngùi của các nhân vật trong bài thơ đều hội tụ ở đây.
Bài thơ chấm dứt trong âm điệu trầm buồn pha chút xót xa. Từ ngữ, hình ảnh có chỗ gợi lại cái không khí riêng của nhiều bài thơ cổ, nhưng cái bâng khuâng khó hiểu của thời đại mà bài thơ diễn tả như nhận xét của Hoài Thanh thì đến nay, chúng ta đã phần nào hiểu được.
Bình giảng bài thơ “Tống biệt hành” của Thâm Tâm – Bài làm 2
”Tống biệt hành” của Thâm Tâm có một sức ám ảnh rất mạnh, ai đã đọc một lần chắc không bao giờ quên giọng thơ gân guốc, rắn rỏi của nó. Nhưng bên ưong cái rắn rỏi ây, bài thơ lại râ’t buồn, buồn mà không sụp xuống, cũng như dứt khoát, dửng dưng mà không vô tình. Bài thơ ngợi ca một người giã nhà ra đi theo chí lớn mà vẫn nặng lòng lưu luyến, bịn rịn với gia đình.
Bài thơ viết theo lời người đưa tiễn và từ quan sát cảm nhận, suy nghĩ của người tiễn mà khắc hoạ nên hình tượng của người ra-đi.
Bốn dòng đầu của bài thơ là cảm nhận xao xuyến ngỡ ngàng của người đưa tiễn trong phút tiễn đưa:
“Đưa người, ta không đưa qua sông,
Sao có tiếng sóng ở trong lòng ?
Nắng chiều không thắm, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong” .
Hai câu hỏi dạng “Không… sao có…” vừa có tác dụng phát hiện cái bất ngờ, vừa tô đậm tâm trạng và ấn tượng xảy ra trong cuộc tiễn đưa. Không phải cảm xúc dâng lên từ ngoại cảnh, hỏi ngoại cảnh làm gì có sông, và đã làm gì có hoàng hôn? Cũng không phải tình cảm xót xa khi tiễn đưa người bạn đi xa thông thường, khi tiễn bạn người ta thường khuyên bạn, chúc bạn, thương bạn, nơi góc bể chân trời, tự cảm thấy mình lẻ loi, cô độc, ở đây không có những tình cảm ấy, mà có những cảm xúc khác. “Tiếng sóng trong lòng” có thể là xao xuyến bồn chồn do một nguyên nhân nào đã biết trước, còn “đầy hoàng hôn trong mất trong” thì không phải là ánh mắt của người trượng phu lên đường. Người trượng phu xưa giã nhà theo chí lớn thường có điệu bộ khảng khái, tóc dựng xiên mũ, bước đi không ngoái lại như Kinh Kha xưa bên bờ sông Dịch trong Sử ki, hay như chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt trong “Chinh phụ ngâm”…
Chính cái cảm xúc và phát hiện mới lạ ấy đã làm nẩy ra ý thơ trong đoạn tiếp theo, như một lời giải thích:
“Đưa người, ta chỉ đưa người ấy.
Mộtgiã gia đình, một dửng dưng
Li khách! Li khách! Con đường nhỏ,
Chí nhớn chưa về, bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại.
Ba năm mẹ già cũng đừng mong”.
Đoạn thơ như nói lên niềm thất vọng của người tiễn: Không, ta không tiễn con người mắt đầy hoàng hôn này: “Ta chỉ đưa người ấy”. Chữ “ấy” như muốn phân biệt với người này. Người ấy phải là con người kiên quyết, dửng dưng, đi theo chí lớn, theo bóng người trượng phu xưa, dám dấn thân “con đường nhỏ”, chí nhớn chưa thành thì không nói chuyện trở lại “ba năm mẹ già cũng đừng mong!”.
Kí ức người tiễn liền nhớ lại tiền sử của ánh mắt hoàng hôn:
“Ta biết người buồn chiều hôm trước:
Bảy giờ mùa hạ sen nở nốt
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót.
Ta biết người buồn sáng hôm nay:
Trời chưa mùa thu tươi lắm thay,
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…”
Đây là một cuộc tiễn đưa khác, đầy bịn rịn và nước mắt thương tiếc trong gia đình. Tiễn đưa đầy tinh thần níu lại. Hai chị như sen cuối mùa hạ, khóc nốt dòng lệ sót, khóc đến giọt nước mắt cuối cùng. Nhà thơ không nói “hai chị”, mà đếm “một chị, hai chị” như xét đến từng người. Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc như chưa hiểu việc gì đang xảy ra. Và ai là kẻ “Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay”, anh hay em? Người ra đi hay người ở lại?
Nhưng người ra đi đã dứt áo ra đi:
Người đi ừ nhỉ, người đi thực!
Câu hỏi nêu ra như một điều không chắc chắn. Nhưng sự thực thì đã ra đi. Câu “Người đi thực” như khẳng định một điều mà giây phút trước đó có thể chưa phải là sự thực. Người trượng phu trong người ra đi đã trỗi dậy với tư thế kiên quyết đứt tình như tráng sĩ xưa:
“Mẹ thà coi như chiếc lá bay,
Chị thà coi như là hạt bụi,
Em thà coi như hơi rượu say”
Mỗi chữ “thà” coi như một nhát dao sắc, chặt đứt tình cảm để ra đi. Có người nghĩ rằng ý nghĩ người ra đi như vậy có vẻ tàn nhẫn quá, nên muốn hiểu cho “tình cảm hơn”, đã giải thích thành: “Xin mẹ hãy coi con như chiếc lá bay, xin chị coi em như hạt bụi, xin em coi anh như hơi rượu say”. Mới xem tưởng hiểu như vậy có vẻ “nhân ái” hơn, nhưng không đúng. Bởi lẽ, muốn hiểu thế thì lời đó phải là lời của người ra đi, nhưng trong văn cảnh lại là ý nghĩ của người tiễn, con người muốn nhìn thấy một trượng phu! Hiểu như thế thì cần xem “em nhỏ ngây thơ” coi anh như “ hơi rượu say” một cách ngang tàng thật là vô lí, vì em đã biết gì đâu “hơi rượu say” mà cầu xin! Đây chỉ là ý nghĩ của người tiễn giải thích về tình cảm trựơng phu đã trỗi dậy trong người ra đi. Một cuộc tiễn đưa đầy kịch tính; kịch tính trong tình cảm, trong mâu thuẫn giằng xé giữa chí lớn, tình riêng. Một cuộc tiễn đưa hàm chứa một cuộc tiễn đưa, hay nói cách khác, hai cuộc tiễn đưa dồn nén, thử thách trong mộc cuộc tiễn đưa. Nhưng cuối cùng chí lớn đã thắng. Người trượng phu hôm nay, con người được thức tỉnh bởi lí tưởng nhân đạo, cá tính, không còn có thể ra đi thanh thản, nhẹ nhàng như ngày xưa nữa! Li khách đã ra đi trong tình cảm luyến tiếc sâu xa.
Nhà thơ sử dụng đầu đề “Tống biệt hành” rất cổ kính, có lẽ chỉ để nhân mạnh cái giống và cái khác với người xưa. Đầu đề này có tác dụng đánh dấu xu hướng phong cách hoá cổ kính của bài thơ. Với đầu đề này, người tiễn tự xưng là “ta”, người đi được xưng là “li khách”, những lời khảng khái cũng được nói lên một cách thích hợp. Hình như người ra đi muốn mượn cái khí thế, lời lẽ ngang tàng của trượng phu xưa để nâng đỡ chính mình. “Hành” vốn là một thể thơ thịnh hành vào thời Hán Nguỵ Lục Triều ở Trung Quốc, có đặc điểm là tự do, phóng khoáng, không gò bó, lời thơ gần với lời nói. Vận dụng thể “hành”, Thâm Tâm đã sử dụng nhiều câu hỏi, câu trùng điệp. Câu thơ bảy chữ, nhưng cấu tạo ngắt nhịp tự do. Cả bài đều dùng vần bằng có thanh không dấu, xen với ít vần “trắc”, gieo vào lòng người một ý vị bâng khuâng, xốn xang.
Bình giảng bài thơ “Tống biệt hành” của Thâm Tâm – Bài làm 3
Đời người và đời thơ của Thâm Tâm đều ngắn ngủi. Ngày 18.8.1950, nhà thơ mất trên đường hành quân tham gia chiến dịch Cao Bắc Lạng. Năm ấy, ông mới ba mươi tuổi. Còn nếu tính từ năm 1938, khi Thâm Tâm cùng gia đình lên Hà Nội kiếm sống bằng nghề vẽ tranh, viết văn, làm thơ thì “tuổi nghề” của ông vỏn vẹn chỉ 12 năm.
Đã thế,Thâm Tâm làm thơ ít, số bài thơ bây giờ tập hợp được chỉ độ vài ba chục. Nhưng thơ Thâm Tâm khiến người đời nhớ mãi. Đây là không kể chuyện Thâm Tâm với các bài thơ về hoa ti gôn, màu hoa như tím vỡ, mọc vô vàn trên các bờ giậu nhưng khi có thơ, loài hoa ấy ai cũng phải ngắm nhìn một cách đặc biệt.
Tống biệt hành là bài thơ đặc sắc nhất của Thâm Tâm , cũng là bài thơ Mới có nhiều ý kiến, bình giá khác nhau nhất và cơ hồ chưa phải đã kết thúc.
Bài thơ được sáng tác vào năm 1940, không biết đích xác là ngày nào. Năm sau, được đưa vào tuyển thơ Thi nhân Việt Nam, với lời bình của Hoài Thanh:
Thơ thất ngôn của bây giờ thực có khác thơ thất ngôn cổ phong. Nhưng trong bài dưới đây lại thấy sống lại cái không khí riêng của nhiều bài thơ cổ, điệu thơ gấp, lời thơ gắt. Câu thơ rắn rỏi, gân guốc. Không mềm mại, uyển chuyển như phần nhiều thơ bây giờ. Nhưng vẫn đượm chút bâng khuâng khó hiểu của thời đại.
Ý kiến của Hoài Thanh thật xác đáng:Tống biệt hành vừa giống thơ cổ vừa không phải thơ cổ đượm chút bâng khuâng khó hiểu của thời đại. Đó cũng là lí do khiến từ bấy đến nay có biết bao ý kiến khác nhau về Tống biệt hành mà khổ nỗi lại là ý kiến của những người uyên thâm ,hoặc có quan hệ gần gũi với tác giả.
Tên bài thơ:
Tên bài thơ không có gì là khó hiểu, rõ ràng đằng khác: tiễn đưa nhau khi li biệt. Chỗ dễ gây khó hiểu duy nhất ở đây là chữ hành. Hành vừa có nghĩa là đi, dời đi, lại có nghĩa là khúc hát, bài ca. Bởi vậy, khi dịch nghĩa tên một số bài thơ Đường, người ta thường giữ nguyên chữ ấy như Trường Can hành (Thôi Hiệu), Lũng Tây hành (Trần Đào)… mặc dù Trường Can, Lũng Tây đều là địa danh. Xa hơn nữa , người ta thấy , hành là thể thơ vốn thịnh hành ở Trung Quốc thời Hán Nguỵ , Lục Triều, có cội nguồn từ trong Nhạc phủ , tức những bài thơ có thể phổ nhạc , nhưng chỉ để dùng trong cung cấm. Do đó, Trường Can hành là một khúc Nhạc phủ , song cũng là tên một bài thơ của Đỗ Phủ . Nội dung hai bài hoàn toàn khác nhau. Khi thoát khỏi cung cấm, thể thơ hành trở nên phóng túng về hình thức để thể hiện rõ tình ý của người viết . Các bài thơ hành đời Đường viết về nhiều đề tài : tình yêu nam nữ , về chiến tranh , loạn lạc , chia li… Thời Đương , các bài thơ hành thường viết theo thể thất ngôn (Tì bà hành – Bạch Cư Dị, Trương Can hành – Lí Bạch), hoặc ngũ ngôn (Trường Can hành –Thôi Hiệu), nhưng cũng có trường hợp dài , ngắn tuỳ ý (Binh xa hành – Đỗ Phủ).
Sau đời Đường, trong văn học các nước phương Đông, thơ hành không thiếu. Ở Việt Nam , có bài khá nổi tiếng như Sở kiến hành của Nguyễn Du. Tuy nhiên ,nhìn chung , số lượng vẫn khá ít ối với những bài thơ khác. Bẵng đi thời gian khá dài , ở nước ta những năm cuối của phong trào Thơ mới bỗng xuất hiện nhiều bài hành của các nhà thơ Thâm Tâm (Tống biệt hành, Can trường hành, Vọng nhân hành). Nhiều bài thơ của các ông dù không có chữ hành ở tựa đề nhưng vẫn cùng chung một giọng điệu. Cả ba vốn là bạn bè thân thiết nên có người gọi đây là trường phái thơ hành, bên cạnh các trường phái thơ Loạn ,thơ Say,thơ Đạo …thời ấy.
Sau năm 1954, ở miền Nam ,cũng có một vài nhà thơ trẻ làm thơ hành như Hoàng Lộc, Duynh Trầm Ca… Thơ của họ, tuy nội dung có khác, nhưng gần gũi với các bậc “tiền bối” ở cái giọng kiêu bạc, khinh đời:
– Chẳng lẽ giận đời đi uống rượu
Mà say chưa chắc đã quên đời
Và chưa chắc ấm sầu xa xứ
Đỏ mặt hoàng hôn cũng hổ người
(Hoàng Lộc)
Rượu cuối năm gió lọt lòng ly
Vọng tiếng hú ma Hời buồn quê cũ
Đêm viễn xứ vang vang pháo nổ
Giao thừa giao thừa hề ta lăn quay
Rượu hết làm sao chết giữa cơn say…
(Đuynh Trầm Ca)
Nói mông lung như vậy đẻ thấy không thể đơn giản khẳng định Tống biệt hành của Thâm Tâm là bài thơ theo thể hành thời trước ,bởi nào ai chỉ ra thi pháp của thể thơ ấy như kiểu thơ luật Đường hay văn biền ngẫu …Có giống chãng chỉ là nhà thơ mượn chữ hành thường tỏ ra khá phóng túng ,như muốn nói cho bằng hết ý mình ,mà đó thường là những điều khó nói,khó được chấp nhận .Ví như bài Lũng Tây hành của Trần Đào là một mặt trái của chuyện đời:
Quên mình, thề giết Hung Nô
Năm ngoái tướng sĩ bụi Hồ vùi thân.
Bên sông Vô Định xương tàn,
Vẫn người trong giấc mộng xuân khuê phòng.
(Trần Trọng San dịch)
Hay Nguyễn Bính, nhà thơ đồng quê nhưng với Hành phương Nam lại tỏ ra khá ngang tàng, kiêu bạc:
Rãy ruồng châu ngọc, thù son phấn
Mắt đỏ lên rồi cứ chết ngay
Hỡi ơi nhiếp chính mà băm mặt
Giữa chợ ai khóc mà nhân thay
Rõ ràng, thơ hành của Thâm Tâm, Nguyễn Bính, Trần Huyền Trân là thơ hành của chính các ông, những nhà thơ Mới bởi vậy mới đượm chút bâng khuâng khó hiểu của thời đại.
Chuyện Tống Biệt
Tống biệt là chuyện muôn thuở , đề tài quen thuộc của văn chương. Nhưng với Thâm Tâm ,chuyện tống biệt chừng như khác . Đấy không phải là chuyện Lưu Trần và Nguyễn Triệu rời Thiên Thai có Suối tiễn oanh đưa tiễn ngậm ngùi ( Tản Đà -Tống biệt ).Cũng không phải là sự ra đi vì Non sông đã chết thêm nhục ,Hiền thánh còn đâu học cũng hoài ( Phan Bội Châu – Lưu biệt xuất dương ) ,hay ra đi mà lòng hẹn quyết : Đấng trượng phu tuỳ ngộ nhi nan…Non sông ấy chờ ta thêu đặc dệt.Kìa tụ tán chẳng qua là tiêu biểu ( Huỳnh Thúc Kháng-Bài ca lưu biệt ) .Người ra đi ở tống biệt hành có phần gần gũi với khách chinh phu trong Tiếng gọi bên sông của Thế Lữ:
Ta đi theo đuổi bước tương lai,
Đẻ lại bên sông kẻ ngậm ngùi
Chí nặng bốn phương trời nước rộng,
Từ nay thêm bận nỗi thương ai.
Những chỉ gần mà không giống. Cách nhau độ năm, mười năm mà đã thế, làm sao bảo li khách có “họ hàng” với chàng Kinh Kha ở nước Yên cả ngàn năm trước?
Ra đi là một mô típ không chỉ trong văn chương mà trước hết là trong đời sống của không ít thanh niên Việt Nam thời kỳ 1930-1945. Đi đã trở thành nhu cầu .Vì lí do gì ư? Nhiều lắm ! Ngay ở một nhà thơ của Hoa niên vẫn không hiếm những câu:
Những ngày nghỉ học tôi hay tới
Đón chuyến tàu đi đến những ga
Tôi đứng bơ vơ xem tiễn biệt,
Lòng buồn đau xót nỗi chia xa.
( Tế Hanh -Những ngày nghỉ học )
Vì sao có chuyện kỳ cục ấy? Người trong cuộc giải thích:
Kẻ về không nói bước vương vương…
Thương nhớ lan xa mấy dặm trương.
Lẽo đẽo tôi về theo bước họ
Tâm hồn ngơ ngẩn nhó muôn phương.
Những năm 40 của thế kỷ trước , đi càng trở nên bức bách khi mà bao câu hỏi cứ xoáy mãi trong lòng họ:
Ôi ! Ta đã làm chi đời ta?
Ai đã làm chi lòng ta ?
……………………………………
Ta đã làm chi đời ta xưa?
Ta đã dùng chi đời ta chưa?
Thiên thu? ngờ sự nghiệp!
Chiều mưa rồi đêm mưa;
Gió lùa gian gác xép,
Đời tàn trong ngõ hẹp.
( Vũ Hoàng Chương – Đời tàn trong ngõ hẹp )
Với các nhà thơ trường phái thơ hành, nỗi đời còn bức bách hơn. Trần Huyền Trân gào thét:
Thế rồi thí bỏ rủi may
Đưa giam cõi bụi, đứa đày rừng sâu
Vai cày chẳng kẻo làm trâu
Giong xe chẳng kẻo tóc râu làm bờm
Nẻo về chật chội áo cơm
Dặm đi lại đông từng cơm lá rừng…
(Độc hành ca )
Đi không đòng nghĩa với sung sướng. Nhưng là sự giải thoát với khỏi thực tại: Kinh thành mây đỏ như son, Cái lồng chật chội giam con chim trời (Trần Huyền Trân-Vô đề). Người đi có phần bất chấp:
Mơ gì Áp tiết thiên văn tự,
Giày cỏ gươm cùn ta đi đây.
(Nguyễn Bính –Hành phương Nam )
Sau này, khi nhiều người thắc mắc về người đi trong bài thơ của mình (cũng là một cuộc ra đi từ trước năm 1945), Nguyễn Đình Thi giải thích: Người ra đi này cũng không phải là tác giả hoặc một người cụ thể -người ấy ra đi ,có thể đi làm cách mạng, hoặc vì một lẽ khác , vì một bi kịch riêng… Dù sao đấy cũng là một người bỏ nơi ở, bỏ nơi mình đang quen sống để ra đi, người ấy có nhiều nông nổi, nhiều tâm trạng… (Đỗ Tiến Bảng -Về bài thơ Đất Nước ,Văn nghệ ,số 53/1994).
Trường hợp Thâm Tâm ,trong số những bài thơ ít ỏi trước năm 1945, chuyện ra đi không chỉ nói ở Tống biệt hành . Ở Tráng ca (1994), có Bọn ta một lớp lìa nhà. Ở Can trường hành (1944), có chàng là bậc trẻ không biết sợ… Vợ con thí tất cho thiên hạ… Ta lênh đênh hoài sâu biết mấy! Còn trước đó, vào năm 1940, người ra đi với bao quyết tâm:
Trời hỡi ! Mai này tôi phải đi
Thơ này rồi chẳng đọc ai nghe
Đời nhiều nhưng có dăm người bạn
Thì viễn li không có đường về
……………………………………………
Ngày mai ngược gió tôi đi ngược
Ai có quan tâm gọi trở về
Trời hỡi ,ngày mai ngày mốt thôi
Ngày mai cay đắng nhất li bôi…
(Ngược gió)
Đến năm 1944, chuyện ra đi lại đặt ra ở một bài thơ mang tên Lưu biệt hẳn hoi mà người đi lại rất cụ thể:
Tiệc này đêm cuối mai chia li
Anh cố lưu tôi có ích gì
………………………………….
Đất trời rộng quá tôi không chịu
Cắm chặt sông đây một cánh bè
……………………………………………
Sáng mai qua bến Ninh Cơ lạnh
Sẽ thấy se lòng trận gió tê
Giọng đàn lưu luyến làm chi nữa
Tôi quyết đi rồi tôi phải đi .
Cách đây không lâu, nhiều người đã tìm các tư liệu khá cụ thể về cuộc chia li và li khách ở bài thơ Tống biệt hành. Rất tiếc, các tư liệu ấy, có độ tin cậy cao (một người bạn thân của Thâm Tâm, một người là nhà văn cùng thời), nhưng lại trái ngược nhau. Tôi đồ rằng, sẽ còn những phát hiện như thế nữa. Song tất cả các phát hiện ấy càng khiến việc tiếp cận bài thơ thêm khó khăn. Giả dụ rằng, không có cuộc chia tay với những con người cụ thể kia thì thế nào vẫn có Tống biệt hành, bởi muốn đi, quyết ra đi thật sự không ai khác là chính nhà thơ Thâm Tâm!
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Chuyện ra đi là thế ,nhưng người ta bàn luận nhiều về Tống biệt hành có lẽ vì đây là bài thơ hay nhất của Thâm Tâm .
Bài thơ mở đầu theo lối trực tiếp, như một thông báo, không nhiều lời:
Đưa người, ta không đưa qua sông.
Song, đây lại là câu mở đầu,khiến người ta liên tưởng rất xa. Đây là chuyện Kinh Kha ,người nước Tề , thời chiến quốc . Chàng vốn là kiếm khách nổi tiếng. Khi Tần sắp đem quân uy hiếp nước Yên , thái tử Đan nhờ Kinh Kha có làm bài dịch thuỷ (Bài ca sông Dịch) ,tỏ rõ quyết tâm của mình:
Phong tiêu tiêu hề Dịch thuỷ hàn,
Tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn.
(Gió vi vu ,sông Dịch lạnh ,
Tráng sĩ một đi không trở về).
Việc hành thích Tần vương của Kinh Kha không thành .Chàng bị đam chết giữa cung điện Tần.Nhưng câu chuyện về Khinh Kha thíống mãi trong cuộc đời và văn chương. Đời Đường, Lạc Tần Vương có bài thơ Dịch thuỷ tống biệt nhắc chuyện Kinh Kha với bao cảm khái:
Tích thời nhân dĩ một,
Kim nhật thuỷ do hàn.
(Người xưa đã khuất rồi.
Nước sông còn lạnh buốt).
Tống biệt hành gợi nhớ chuyện Kinh Kha ,song lưu ý mọi người đây không phải là chuyện xưa : Đưa người ,ta không đưa qua sông .Cuộc đưa tiễn không biết diễn ra tại đâu ,nhưng buồn hiu hắt ,chất đầy tâm trạng :
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm ,không vàng vọt,
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Dường như ngoại cảnh không liên quan gì tới tâm trạng :không có bờ sông dậy sóng nhưng trong lòng lại nổi phong ba ;buổi chiều bình yên nhưng trong mắt đẫm ánh tà dương !Cách diễn tả thật lạ lùng.Thông thường ,người ta hay lấy cảnh vật để tả nỗi lòng ,theo kiểu Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ .Nhà thơ Mới Thâm Tâm thừa biết điều đó, nhưng đã làm theo chiều ngược lại.Trong bức tranh ngược sáng ây , tâm trạng nổi bật hẳn lên ,nỗi buồn ,sự tê tái mang vóc dáng ,hình thù hẳn hoi.
Người ta hay bàn cãi ,nỗi buồn của ai đây ?Theo lô gíc hình thức, chắc chắn đây là nỗi buồn của người đưa tiễn .Người ấy đang nói , đang kể chuyện rành rành ra đó .Bởi vậy ,mới có những câu thơ tiếp theo :
Đưa người ,ta chỉ đưa người ấy,
Một gã gia đình, một dửng dưng…
Chẳng lẽ ở trên nói người ra đi rất u buồn ,liền sau đó lại khẳng định: không ,người ấy rất dửng dưng ?Từ đầu đến câu thơ này,tất cả đều diễn tả tâm trạng của người đưa tiễn.Nhưng nhân vật trung tâm lại là người ra đi: vì người ấy mà tôi buồn ;vì người ấy mà tôi đau;chỉ có một người ấy thôi!Khổ nỗi ,người ấy lại nhất quyết ra đi,không gì có thể cưỡng lại đuợc:
Li khách ! Li khách ! Con đường nhỏ,
Chí nhớn chưa về bàn tay không,
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm ,mẹ già cũng đừng mong.
Không ai biết lí do nào khiến người phải ra đi .Song , chắc đấy không là lí do đơn giản ,bình thường.Việc gì người ta phải đánh đuổi, kể cả nỗi lòng chờ mong của người mẹ thiêng liêng để ra đi , nếu đó không là lí do thật cao cả? Câu thơ vẫn theo điệu kể ,nhưng chủ thể lời nói thì chuyển dịch dần từ người đưa tiễn sang người ra đi ,từng lời ,từng lời ,một,thật rắn rỏi , việc ra đi khó lòng thay đổi ý định ở người ra đi :
Ta biết người buồn chiều hôm trước :
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt,
Một chị ,hai chị , cùng như sen,
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót.
Ta biết người buồn sáng hôm nay:
Giời chưa mùa thu ,tươi lắm thay,
Em nhỏ ngây thơ , đôi mắt biếc,
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…
Chỗ dựa ấy là hoàn cảnh và tâm trạng của li kahchs .Về hoàn cảnh, người ấy có mẹ già và “một chị ,hai chị, cùng như sen” mùa hạ. Đông đấy ,nhưng vẫn lẻ loi , đơn chiếc .Người ấy có người “em nhỏ thơ ngây, đôi mắt biếc” đang rất nặng tình với mình ( ). Hoàn cảnh và tình cảm sâu nặng như thế ,ra đi lòng sao không trĩu nặng. Nhưng tình không lớn bằng nghĩa. Năm 1944, trong bài thơ Lưu biệt, Thâm Tâm thêm một lần nói rõ điều đó:
Đời người say tỉnh được bao dịp
Xin cạn chén rượu để tôi đi
Đau tình không xót bằng đau nghĩa
Tay gầy cũng ném chén vô tri
Mắt xanh cùng gửi ngoài mưa gió
Lòng không cùng sống với cầm thi…
Người ấy vẫn cứ đi .Chỗ dựa đẻ níu kéo hoá ra không cầm giữ được
Vì thế ,người trong cuộc ,dù biết rất rõ ,hiểu rất kỹ nhưng lòng vẫn bàng hoàng, ngơ ngác:
Người đi? Ừ nhỉ,người đi thực!
Mẹ già coi như chiếc lá bay,
Chị thà coi như là hạt bụi,
Em thà coi như hơi rượu say.
Khi bàng hoàng, ngơ ngác trước một cuộc chia li thì người ra đi mãi mãi in dấu trong tâm hồn người ở lại và cuộc chia li vẫn như đang diễn ra. Bài thơ Tống biệt hành của Thâm Tâm khiến người đời nhớ mãi vì lẽ đó.
Bình giảng bài thơ “Tống biệt hành” của Thâm Tâm – Bài làm 4
Rung động sâu xa về một cuộc chia tay da diết và đằm thắm tình đời, tình người đã thôi thúc nhà thơ Thâm Tâm viết bài thơ “Tống biệt hành”. Bởi thế, mà giọng thơ như gợi nhớ về những điều gì đã xa của quá khứ, để lại trong lòng người những ấn tượng khôn nguôi.
Chia li! Đó là điều đã và sẽ xảy ra trong cuộc đời của mỗi con người. Bởi thế mà đề tài “Tống biệt” không phải là đề tài xa lạ đôi với chúng ta. Thi hào Nguyền Du xưa đã từng viết rất hay về những cuộc tiễn đưa, Thâm Tâm đã nói lên một tiếng thơ riêng – một điệu hồn của một thi sĩ chắc đã từng có những cuộc chia lìa da diết và xót đau trong cuộc đời:
Đưa người, ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng.
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Những câu thơ đã gợi lên trong lòng người đọc những cảm xúc bâng khuâng, khó tả. Có lẽ người ta cảm thấy buồn nhiều hơn. Cảm xúc buồn cũng toát lên từ những câu thơ, những hình ảnh gợi lên cảm giác. Cả
đoạn thơ là một chữ “không” và những dấu hỏi (? ) “Không dưa qua sông”‘, “không thắm” “không vàng”… khắc họa một cảm giác gần như chơi vơi rợn ngập trong lòng. Có cái gì dó vừa như là thực, vừa huyền hô, hư ảo. Rõ ràng, “dưa ngươi ta không dưa qua sông” mà sao “có tiêng sóng ở trong lòng”. Câu thơ đã xác định rõ ràng khoảng không gian của cuộc tiễn đưa, người đọc hình dung cuộc tiễn đưa đó đang diễn ra trên khoảng không gian ấy. Nhưng đây là không gian trong lòng người. Thời gian cũng được xác định nhưng đó cũng là thời gian của lòng người: “Bỏng chiều không thắm, không vàng vọt – Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong? ”. Lại một lần “không” và câu hỏi vẫn chưa được xác định. Nhưng nếu người đọc để’ ý, phát hiện và nắm bắt được những điều huyền diệu ẩn chứa trong tình cam con người thì sẽ thấy tác giả nói vậy là rất hợp logic tâm lí của mỗi con người.
Một lần, “không” hai lần “không” và những câu hỏi đầy nghi ngừ chưa được giải đáp đổ rồi chỉ nói một chữ “có”.
Không có bôn sông, không có bóng chiều vàng vọt, nhưng lại có tình người da diết và đằm thắm khôn cùng. Có biết bao nhiêu điêu muốn nói đằng sau những từ “không” ấy. Có cái gì nhói lên thật xót đau trong lòng người ra đi và người ở lại. Bởi thế, họ mới tìm thấy “hoàng hôn” trong mắt nhau. Những nét buồn ánh lên trong mắt. Nỗi đau cứa chia li dà làm cho con người chơi vơi, đưa người ta vào một trạng thái tâm trạng lơ lửng. Chỉ biết “đau” và cảm thấy “đau”.
Phải chăng cuộc chia li quá bất ngờ đối với mỗi người nên một lân nữa người ta phải xác định cảm xúc của mình.
Đưa người, ta chỉ dưa người ấy Một giã gia đình, một dửng dưng…
Đúng “ta chỉ đưa người ấy”. Chỉ có một người ra đi nhưng chưa biết là ai và chưa biết người ấy đi đâu. Chỉ biết rằng “người ấy” đã tạm biệt gia đình và “một dửng dưng”. Người đọc cảm. thấy như vừa hụt hẫng một cái gì chứa đựng trong lòng người ra đi. Sự “dửng dưng’ khi không phải là tâm trạng lúc này của người ra đi. Có một nỗi đau đớn trong lòng riêng họ đã tạo nên tư thô “dửng dưng” cho mình để nén ghìm nỗi đau. Con đường ra đi không định và chính “người ấy” cũng không biết. Nhưng “người ấy” ra đi với một quyết tâm lớn:
Chí lớn chưa về bàn tay không Thì không bao giờ nói trở lại.
Đến đây có nhiều ý kiến cho rằng “người ấy” chính là người chiên sĩ ra đi tìm đường cứu nước. Tôi cho rằng ý kiến đó không hoàn toàn đúng, bởi không có một cơ sở nào để khẳng định như thế. Người đi tác giả không nói rõ. Và chi biết rằng “người ấy” ra đi với quyết tâm lớn là thực hiện được “chí nhớn” của mình. Rất có thế “người ấy” ra đi để tìm tới một cuộc sống mới, một cuộc sống tươi sáng hơn cuộc đời mà anh ta đã sông. Đặt trong hoàn cảnh những năm bôn mươi khi bài thơ ra đời, đó không phải là lẽ sông và ý tưởng tiến bộ của những dâng nam nhi hay sao? Nhưng có điều conđường tiên tới tương lai (lôi với họ còn mờ mịt, chưa xác định. Họ chấp nhận chia li; họ quyết tâm nhưng không phải họ buồn không đau. Hai chừ “li khách” và dấu chấm than (! ) dằng sau vừa nói lên nỗi đau cua sự chia li, vừa nói lên sự quyết tâm một cách dứt khoát. Cũng như người ra di trong bài Đất nước của Nguyễn Đình Thi. Người ra di dầu không ngoảnh lại Sau lưng thềm nắng lá rơi dầy.
“Người ấy” ra đi với một tâm trạng buồn khôn xiết, với mỗi nỗi đau.
Ta biết người buồn chiều hôm trước Bây giờ mùa hạ sen nở nốt Một chị, hai chị, cùng như sen Khuyên nốt cm trai dòng lệ sót.
Ta biết người buồn sáng hỏm nay:
Giời chưa mùa thu, tươi thắm thay,
Em nhỏ ngây thơ dôi mắc biếc Gói tròn thương tiếc chiếc khăn Lay…
Đây là cuộc tiễn đưa thật cảm động và xót thương. Nỗi xót xa cứ dâng ngập trong lòng người ra đi và người ở lại. Hình ánh những người chị như những đóa sen cuối hạ của một miền quê lam lũ và đứa em gái ngây thơ với chiếc khăn tay cứ lần lượt hiện ra trong tâm trí của người ra đi, nhói lên trong tâm hồn người ấy một nỗi xót xa vô hạn. Và vẫn biết ra đi là phải chấp nhận những đắng cay, những xót xa và phải trả giá đắt cho cuộc ra đi của mình; nhưng “người ấy” vẫn quyết tâm cho đến cùng. Sự ra đi của người ấy cứ gợi lên trong lòng người đọc liên tưởng đến chàng Kinh Kha thời Chiến Quốc “một di không trở lại”, “ra đi không vướng thê nhi”.
Sự ra đi càng bất ngờ, người ra đi càng quyết tâm bao nhiêu và nỗi đau được nén ghìm lại thì cuộc ra đi càng tiến triển theo chiều hướng tốt đẹp. Người ớ lại mặc dù đau xót và nhớ thương nhưng cũng không cản trở người ra đi thực hiện “chí nhớn”. Những người chị đã “khuyên em trai” trong tiếng nấc xót xa. Và đứa em nhỏ “ngây thơ dôi mắt biếc” trao cho anh chiếc khăn kỷ niệm. Rõ ràng là cả người đi và người ớ lại đều phải chấp nhận những đắng cay, tiếc thương nhưng không ai ngăn cản công việc cùa ai. Mỗi người một phương đau xót nhưng họ điềm nhiên chấp nhận:
Người đi, ừ nhỉ, người đi thực!
Dường như từ nay nỗi đau chia li đã đẩy con người vào trạng thái nửa như mơ, nửa như tính và không định. Đến bây giờ, người đi, đi thật rồi người ớ lại mới giựt mình, bàng hoàng “ừ nhí”, “người di thực”.Câu thơ thốt lên trong một trạng thái tâm hồn xiết đau. Người ở lại vừa như bừng tỉnh một cơn ác mộng. Tất cả những gì vừa diễn ra lại trở về nén ghìm trong nỗi buồn đau của người ra đi.
Mẹ thà coi như chiếc lá bay.
Chị thà coi như là hạt bụi Em thà coi như hơi rượu say.
Người đi dường như xác định được trước tất cả những gì đã xảy ra. Và “người ấy” đã đe lại sau mình những nỗi buồn đau đổ ra đi với một tâm trạng khôn nguôi. Hai chữ “thà coi” được nhắc đi nhắc lại ba lần với ba lần, nhắc đến “mẹ”, đến “chị”, đến “em” một lần nữa lại khẳng định quyết tám ra đi của “người ấy”. Mẹ nhắc đô”n thoáng qua, chị thoáng qua, em thoáng qua để rồi “thà coi” như “hạt bụi”, như “lá bay” rồi như tiếp “hơi rượu say”. Tôi cho rằng đây là một cách nói của người ra đi cụ thể là của tác giả Thâm Tâm để ghìm nén nỗi đau lại, để tâm hồn thanh thản ra đi nuôi dưỡng “chí nhớn” của mình. “Thà coi” là như thế, thà chấp nhận là như thế còn hơn chịu mãi một nỗi đau; chí lớn không thành.
Ta biết người ra đi trong bài thơ có một khát vọng rất chính đáng và cao đẹp. Người ấy nuôi dưỡng hi vọng thực hiện được khát vọng đó ở một phương trời xa nào đó.
Bài thơ đã kết thúc ở trong nỗi đau được ghìm nén và sự quyết tâm ra đi của “người ấy”. Âm hưởng của bài thơ vần còn đọng lại trong tâm hồn người đọc. Người đọc cảm thấy được cả nổi đau của sự chia li. Song sự quyết tâm một cách dứt khoát của người ra đi cũng đủ đê cho người đọc đương thời và hôm nay tin tưởng rằng trong cuộc đời thực của mỗi người sẽ có những cuộc ra đi như thế và đã có những thành công trở về.
Bài thơ viết theo thể “hành”, tạo được không khí ồn định, nhưng nội dung lại mang sắc thái rất mới mẻ độc đáo, ghìm nén nỗi đau lại, để tâm hồn thanh thản ra đi nuôi dưỡng “chí lớn” của mình. “Thà coi” là như thô, thà chấp nhận là như thế còn hơn là chịu mãi một nỗi đau: chí lớn không thành. Ta biết người ra đi trong bài thơ có một khát vọng rất chính đáng và cao đẹp. Người ấy nuôi dưỡng hi vọng thực hiện được khát vọng đó ở một phương trời xa nào đó.
Bài thơ đã kết thúc ở đây, trong nỗi đau được kìm nén và sự quyết tâm ra đi của “người ấy”. Âm hưởng của bài thơ vẫn còn đọng lại trong tâm hồn của người đọc. Người đọc cảm thấy được cả nỗi đau của sự chia li. Song sư quyết tâm một cách dứt khoát của người ra đi củng đủ để cho người đọc đương thời và hôm nay tin tưởng rằng trong cuộc đời thực của mỗi người sẽ có những cuộc ra đi như thế và đã có những người thành công trở về.
Bài thơ viết theo thê “hành” vừa tạo được không khí cố kính, mang lại sắc thái rất mới mẻ, độc đáo. Cho nên hôm nay, có lõ sự quyết tâm ra đi thực hiện “chí lớn” của “người ấy” trong bài thơ Tống biệt hànhvẫn còn có ý nghĩa với mỗi con người chân chính.
Bình giảng bài thơ “Tống biệt hành” của Thâm Tâm – Bài làm 5
Thâm Tâm là một nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam, là một nhà thơ luôn mang nặng những tâm sự của thời đại cái tôi, với một giọng thơ rắn rỏi, gân guốc, phảng phất chất thơ cổ điển. Đọc thơ Thâm Tâm, ta cảm nhận được những suy tư, uất ức nhưng ẩn sâu trong đó lại là tình yêu nước thầm kín và khát vọng mãnh liệt thoát ra khỏi cuộc sống bế tắc của thực tại. Bài thơ “Tống biệt hành” là một bài thơ khá tiêu biểu của Thâm Tâm, thể hiện được phần nào cảm hứng sáng tác, tâm hồn của thi nhân.
Bài thơ “Tống biệt hành” viết về một cuộc chia li, sự ra đi không hẹn ngày về. Qua đó nhà thơ Thâm Tâm thể hiện được những cảm xúc, dãi bày được những tình cảm cũng như những nỗi niềm sâu kín trong chính tâm hồn của mình. Mở đầu bài thơ, nhà thơ đã gợi ra không khí của cuộc chia ly cũng như trạng thái tình cảm trước cuộc chia ly ấy:
“Đưa người, ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong”
Không khí của cuộc ly biệt đầy lưu luyến giữa người đi và kẻ ở, và trong hoàn cảnh này, với tư cách là người ở lại, nhà thơ Thâm Tâm vừa thể hiện nỗi buồn li biệt, vừa thể hiện được tình cảm tha thiết với người đi. Và chính tình cảm này chi phối cách suy nghĩ của nhà thơ, dù tiễn biệt ngàn trùng cũng phải chia li, nhưng nhà thơ vẫn xúc động khi khung cảnh ấy thực sự diễn ra, và thể hiện sự tiếc nuối khi không đưa được xa hơn “Đưa người, ta không đưa qua sông”, vì bến sông bên kia chính là điểm đến của người đi. Cũng có nghĩa giờ phút chia li đã đến. Tâm trạng nhà thơ được tái hiện một cách sống động qua tiếng sóng lòng “Sao có tiếng sóng ở trong lòng”, đó là những dao động, những nỗi niềm khắc khoải khôn nguôi cuồn cuộn, dạt dào khi sắp phải chia xa với người mà mình yêu mến.
Bóng chiều thường gợi ra cho con người những nỗi buồn, nỗi nhớ man mác. Và trong cuộc chia li này, bóng chiều cũng xuất hiện nhưng không có gì đặc biệt, không đỏ thắm cũng không vàng vọt do tàn dư của ánh nắng mặt trời. Trong cách miêu tả của nhà văn Thâm Tâm, ta cảm nhận được cái nhạt nhòa của ánh sáng “Bóng chiều không thắm, không vàng vọt”. Nhưng, trong cái nhìn của người ở thì ánh hoàng hôn phản chiếu qua ánh mắt trong “Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong”, ta có thể hiểu ánh hoàng hôn phản chiếu qua ánh mắt này không phải hình ảnh thực mà chỉ là hình ảnh giả tưởng, nhằm nhấn mạnh sự nhớ thương của người ở đối với người đi.Về mặt tả thực, ta cũng có thể hiểu đó chính là sắc đỏ của ánh mắt khi con người đang xúc động cao độ, đang nhớ thương vô hạn.
“Đưa người ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình một dửng dưng”
Câu thơ gợi ra cho ta rõ hơn về khung cảnh của cuộc chia li, đó không phải không khí đông đúc bạn bè người thân, mà chỉ có hai chủ thể, đó chính là tác giả – người ở và người đi- người mà nhà thơ yêu mến “Đưa người ta chỉ đưa người ấy”. Và tâm trạng của người đi, kẻ ở cũng hoàn toàn trái ngược nhau “Một giã gia đình, một dửng dửng”, đối với nhà thơ, người đi như một người thân trong gia đình, gắn bó ruột thịt nên khi phải chia xa thì không tránh được cảm giác đau đớn, hụt hẫng. Trái lại, người đi thì “dửng dưng”, điều cần nhấn mạnh ở đây,là ta cần hiểu đúng nghĩa của từ này. “Dửng dưng” không có nghĩa là vô tâm, hời hợt, không có cảm xúc gì mà nó thiên về tư thế khi ra đi. Đó là một tư thế hiên ngang, một ý chí bất khuất, không hối hận.
“Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ
Chí nhớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại
Ba năm mẹ già cũng đừng mong”
Quả đúng như ta dự đoán, tư thế ý chí của người đi đến khổ thơ này được nhà thơ nhấn mạnh, làm sáng tỏ, rạch ròi. “Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ”, nhà thơ dùng những từ Hán Việt để làm cho không khí của buổi đưa tiễn mang màu sắc trang trọng. “Con đường nhỏ” ở đây ta có thể hiểu đó chính là con đường lí tưởng mà người đi đã lựa chọn, vì nhỏ nên ắt hẳn sẽ có những gian nan, khó khăn khi thực hiện cuộc hành trình ấy. “Chí nhớn chưa về bàn tay không/ Thì không bao giờ nói trở lại”, câu thơ thể hiện được bất khuất trong ý chí, tinh thần mang màu sắc của những chiến binh xưa, ra đi không hẹn ngày về. Tuy nhà thơ không nói rõ chuyến đi xa này điểm đến là đâu, mục đích là gì. Nhưng qua sắc thái của câu thơ, ta cảm nhận được cái chân thành, cao cả trong lí tưởng, khi chưa hoàn thành được sự nghiệp của bản thân thì quyết không trở về. Và cũng xác định sẵn tư tưởng cho người ở lại, nếu ba năm tin tức bặt vô thì cũng có nghĩa là người ấy cũng không thể trở về được nữa “Ba năm mẹ già cũng đừng mong”.
“Ta biết người buồn chiều hôm trước
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót”
Và chuyến đi không hẹn ngày về này không chỉ có Thâm Tâm cảm thấy đau đớn, xót xa mất mát mà còn rất nhiều người thân của người đi cũng không khỏi bồi hồi, lưu luyến “Ta biết người buồn chiều hôm trước”, đó chính là những người thân của người đi. Và đã là người thân thì đâu ai muốn người thân yêu của mình phải đi vào chỗ hiểm nguy, chết chóc. Cũng vì vậy mà các chị đã hết lời khuyên em, dù biết chẳng thể đổi thay gì “Một chị, hai chị cũng như sen/ Khuyên nốt em trai dòng lệ sót”. Giọt lệ tràn mi thể hiện được sự nỗi đau cũng đồng thời thể hiện sự chấp nhận đầy miễn cưỡng, không muốn nhưng vì em các chị vẫn đồng ý, động viên.
“Ta biết người buồn sáng hôm nay
Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc, chiếc khăn tay”
Bên cạnh cái “dửng dưng” khi ra đi thì những nỗi buồn được người đi giấu kín trong đáy sâu của tâm hồn. Người không chỉ buồn buổi chiều hôm trước, khi chia tay người thân, mà ngay giờ phút này đây, vào giờ phút chia li thì cảm giác chia phôi, mất mát cũng chưa một phút phai nhạt trong con người ấy. Nhưng “Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay”, nhà thơ tin tưởng vào tương lai, vào sự đoàn viên không xa, bởi trời vẫn đẹp, tiết trời còn chưa sang thu. Dùng thời gian để nói về ý niệm tình cảm, có thể thấy đây là nét độc đáo trong cách thể hiện của nhà thơ. Hình ảnh em nhỏ ngây thơ xuất hiện thật bất ngờ, làm cho ta suy nghĩ, chắp mối quan hệ và gợi những liên tưởng phong phú. Đó có thể là một người em đơn thuần của người đi, hay đó cũng có thể là người thương của người đi. Chiếc khăn tay được gói tròn, là tình cảm song cũng là niềm thương tiếc với người đi “Gói tròn thương tiếc, chiếc khăn tay”.
“Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu say”
Ở những câu thơ tiếp theo lại là khoảng thời gian sau đó, khi người đi mà không thấy ngày trở về. Nhà thơ nhận thức được hiện thực ấy những vẫn tự hỏi mình một cách chua xót “Người đi! Ừ nhỉ, người đi thực”, đó chính là cái mơ hồ của cảm giác, dù người đã đi thực rồi nhưng vẫn tưởng như không. Người đi để lại sau lưng tất cả “Mẹ thà coi như chiếc lá bay”, người đi rồi, mẹ già lẻ bóng thấp thỏm chờ con, dù mái đầu đã bạc nhưng không có người phụng dưỡng, chăm lo. “Chị thà coi như hạt bụi”, em không về, người chị ôm nỗi nhớ em, sầu thương. “Em thà coi như hơi rượu say”, hình ảnh này khá độc đáo, vì hơi rượu làm người ta say, thăng hoa về cảm xúc trong chốc lát. Nhưng khi hơi rượu tàn thì sự thăng hoa ấy có thực sự tồn tại, hay chỉ tồn tại trong kí ức đầy mơ hồ.
Như vậy, bài thơ “Tống biệt hành” của Thâm Tâm nói về cuộc chia ly đầy cảm động của người đi, kẻ ở. Cũng nói lên khát vọng, lí tưởng cháy bỏng của người đi, dù không biết điểm đến của người đi là đâu nhưng qua sự quyết tâm thì người đọc cũng hiểu khát vọng ấy đủ lớn, đủ cao cả để người đi bỏ lại sau lưng những tình cảm cá nhân, những thứ quý giá của cuộc đời mình. Và khi người đi không trở lại thì dư âm của nỗi đau, của sự xót thương vẫn còn tồn đọng mãi không phai.