Lòng yêu nước của Nguyễn Khuyến biểu lộ trong thơ văn của ông như thế nào? Hãy phân tích và dẫn chứng

Lòng yêu nước của Nguyễn Khuyến biểu lộ trong thơ văn của ông như thế nào? Hãy phân tích và dẫn chứng – Bài làm 1

Loading…

Khoảng hậu bán thế kỷ thứ 19, lịch sử nước ta đã trải qua một biến cố vô cùng quan trọng, đó là việc nước ta bị Pháp xâm chiếm và đô hộ. Nước mất, làm con dân ai chẳng đau lòng. Nhất là giai cấp sĩ phu từ xưa vẫn tự hào lãnh trách nhiệm dìu dắt quốc dân, đến đây, phải đau đớn nhận thấy sự bất lực và vô dụng của mình, nhiều người đành rút về ẩn cư và đem tấm lòng với đất nước gởi vào lắm áng văn giá trị. Một trường hợp tiêu biểu là Nguyễn Khuyến. Thi văn ông có khá nhiều bài diễn tả những dằn vặt, những tỏ lường của ông trong cơn vong quốc, chứng tỏ tác giả đã nung nấu một lòng yêu nước thiết tha. Chúng ta hãy thử xem lòng yêu nước ấy của Nguyễn Khuyến qua những văn thơ của ông như thế nào.

van mau long yeu nuoc cua nguyen khuyen Lòng yêu nước của Nguyễn Khuyến biểu lộ trong thơ văn của ông như thế nào? Hãy phân tích và dẫn chứng

Yêu nước ấy là muốn cho nước được độc lập, được vinh quang. Nước mất chủ quyền, dân tộc sống trong vòng nô lệ ngoại bang. Người đã biết nghĩ đến nước không khỏi cảm thấy tủi đau. Nguyễn Khuyến đã mượn tiếng cuốc kêu đêm hè để biểu lộ tình cảm ấy. Ông viết:

Khoắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ

Ấy hồn Thục đế thác bao giờ

Năm canh máu chảy đêm hè vắng

Sâu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.

Nghe cuốc kêu mà tưởng như máu chảy hồn tan là bởi tiếng cuốc rung gợi trong tâm hồn tác giả lắm nỗi xót xa. Nhưng Nguyễn Khuyến không phải chỉ là người dân tầm thường. Ông là bậc sĩ phu đã đạt tới bậc cao tuyệt vời của danh vọng sĩ phu, do đó mà ông tự coi như có trách nhiệm lớn đối với dân, với nước. Ông từng than thở cho mình, cho sự bất lực của giai cấp mình:

Loading…

Sách vở ích gì cho buổi ấy

Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già.

Điều ông có thể tự an ủi ấy là thái độ bất hợp tác của ông đối với địch. Không ham địa vị giàu sang, không chịu những phĩnh phờ lừa gạt của thực dân và tay sai, ông đã treo ấn từ quan, trở về sống đạm bạc, nghèo thiếu ở nông thôn, để nêu cao tiết tháo bất khuất. Thái độ ấy ông cũng thường hay mượn vần thơ giải tỏa, để tự hiện bạch. Khi thì ông tự ví mình với một “mẹ mốc” tuy nhan sắc tuyệt trần, nhưng giả điên giả dại, tự bôi tấm váy nhơ, cho không ai chú ý, để có thể yên thân mà dành cả tâm tư cho chồng con xa vắng:

So danh giá ai bằng mẹ Mốc.

Ngoài hình hài gấm vóc chẳng thêm ra

Tấm hồng nhan đem bôi lấm xóa nhòa

Làm thế để cho qua mắt tục.

Khi thì ông tự ví mình như một sương phụ nghèo đói bị người ta cám dỗ bằng đủ mai mối, mồi bả, nhưng vẫn kiên trinh ở vậy vẫn một dạ trung thành với kỷ niệm người cố phu. Đó là ý nghĩa bài Gái góa.

Vốn xưa cha mẹ dặn lời

Từ hôn chi để kè cười người chế

Mụ hỏi mụ thương chỉ thương thế

Thương thì hay nhưng kế không hay

Thương thì gạo vải cho vay

Lấy chồng thì gái già này xin van

Nhưng những cảm nghĩ của Nguyễn Khuyến về đất nước, về thời cuộc không phải chỉ giam hãm ở một thái độ thụ động, tự mình mình biết, tự mình mình hay, bộc lộ ra bằng những lời thở than hay biện bạch đối với chính mình. Ông còn hướng ra ngoài, hướng ra cái xã hội lố lăng, những nhân vật đê tiện mà cuộc đô hộ của ngoại nhân đẻ ra. Ở đây ông ra khỏi lối thơ tâm sự và lấy giọng trào lộng để mỉa mai, chế diễu hay cảnh cáo. Yêu nước tất nhiên là phải ghét bọn qụân thù kéo đến cướp nước. Ác cảm của ông đối với người Pháp tỏ rõ trong nhiều câu chuyện còn truyền tụng. Như một lần, đến chơi nhà một người bạn, người này vừa tiễn một viên công sứ Pháp ra cửa, ông tấm tức ứng khẩu:

Hốt đáo nhĩ môn phùng nhi cấu.

Đời bấy giờ gọi Pháp là quỷ, nhà nho khinh bỉ coi họ như một loài “cẩu” hung hãn, phải đề phòng. Nhưng nghĩ lại, ngoại nhân đáng ghét, song còn đáng ghét hơn nữa là bọn tay sai ngoại nhân, được chúng bôi mặt vẽ mày cho ra đảm đang những công vụ quốc gia, khoe khoang hách dịch với đồng bào. Bọn này không xa lạ gì lắm với tác giả, có kẻ xuất thân ngay trong hàng khoa cử. Tác giả đã chế riễu cái khoa danh cuối mùa của họ.

Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ

Cái giá khoa danh ấy mới hời.

hoặc mỉa mai thói tham lam vơ vét của họ:

Bây giờ đã trót trầy da trán

Ngày trước đi đâu mất máy lông

Bây giờ có viên án sát hình như được thực dân ủy cho dò la và mua chuộc đám chí sĩ Việt Nam, thường hay lui tới thăm hỏi Nguyễn Khuyến, lại trong lúc lai vãng tống tặng, hay sinh tài câu thi vần phú. Nhân dịp quan An gởi biếu một chậu hoa trà, cụ Tam Nguyên liền có bài thơ tạ như sau:

Bác lại cho ta một chậu trà

Ta say ta chả biết mùi hoa

Da mồi tóc bạc ta già vậy

Áo tía đai vàng bác đấy a

Mưa bụi những kinh phường xỏ lá

Gió may lại sợ đứa giơi già

Xưa nay ta vẫn xem bằng mũi

Đếch thấy mùi thơm một chút khà

Tác giả đã tự cho là một mẹ mốc, đã tự phô trương mình là một anh lòa, vậy thì những “dính chung, chu tử” của cái “Tân trào” kia đối với tác giả còn có hương vị gì hấp dẫn nữa. Nghĩ mà giận ông án sát mê muội, thật đáng cụ văng tục cho một tiếng “đếch”. Nếu ông hiểu được cụ đã nguyện “sạch như nước, trắng như ngà, trong như tuyết, mảnh gương trinh bằng vặc quyết không nhơ”, thì đâu ông còn dám múa lưỡi khoe khôn với cụ!

Ghét Tây, ghét bọn quan lại làm tôi tớ cho Tây, Nguyễn Khuyến còn ghét nữa những tục lệ lố lăng mà họ xướng ra, như những ngày hội Tây, hội Phá ngục Bát ti, hội Đình chiến… đều là những kỷ niệm trong lịch sử Pháp, nào có liên quan gì đến ta đâu. Vậy mà họ bày ra hội hè linh đình, với những trò vui thô bỉ như liếm chảo, đập nồi. Dân chúng vô tình tham dự hết mình. Tất cả hể hả trong bầu không khí vui sướng. Nguyễn Khuyến đứng nhìn mà tủi cho quốc thể, đau cho quốc hồn, giận lây cả đám quần chúng vô tâm:

Xem thêm:  Phân tích hình ảnh thiên nhiên trong thơ Xuân Diệu qua các bài “Đây mùa thu tới”, “Vội vàng”, “Thơ duyên”, “Nguyệt cầm”

Khen ai khéo vẽ trò vui thế

Vui the bao nhiêu nhục bấy nhiêu

Thật là một lời cảnh cáo nghiêm khắc, một tiếng gọi hồn nước thiết tha mà đau đớn hướng vào những ai còn biết nghĩ, biết thương.

Ngoài ra, những bài tâm sự hay trào phúng, ta cũng còn có thể thấy lòng yêu nước của Nguyễn Khuyến trong nhiều bài thơ nông thôn của ông. Yêu nước, đối với ông không phải chỉ là than thở giận hờn trước thời cuộc đất nước. Yêu nước đối với Nguyễn Khuyến cũng còn là, trở về một giọng thơ thanh thản hơn, nhận xét và ca tụng những vẻ đẹp của đất nước, yêu nước ấy là yêu cảnh sắc quê hương. Quê hương ta phần lớn là nông thôn với quang cảnh đơn sơ thân thuộc những lũy tre, những mái tranh, những ngõ đất, những ao nước… Nguyễn Khuyến đem tất cả những vật liệu ấy vào thi phẩm. Đọc những vần thơ mùa thu của ông như:

Sóng nước theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo

Từng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo

hay:

Năm gian nhà cỏ thấp le te

Ngõ tối đêm khuya đốm lập lòe

Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt

Làn ao lóng lánh bóng trăng loe

Ta cảm thấy một rung động nhẹ nhàng, thanh tao. Tác giả đã thi vị hóa cảnh quê của chúng, làm cho chúng ta cũng cảm thấy yêu mến quê hương hơn.

Và yêu nước đối với Nguyễn Khuyến cũng còn là yêu lớp người nền tảng của đất nước, lớp dân quê, dân cày, đã hai sương một nắng sản xuất và đóng góp cho nền kinh tế đất nước. Ông đã cúi xuống phản ánh sinh hoạt của họ. Dân quê ta đa sô là tiểu nông bần nông đã phải sống chật vật, eo hẹp như thế nào, ông đã nói lên trong bài Làm ruộng:

Phần thuế quan thu phần trả nợ

Nửa công đứa ở nửa thuê bò

Sớm trưa dưa muối cho qua bữa

Chợ búa giàu chè chả dám mua…

Và những trận lụt tai hại, thêm vào chính sách cao thuế nặng của thực dân đã làm cho nông thôn ta lo lắng- buồn đau như thế nào, ông đã nói lên trong nhiều bài khác:

Quai Mễ Thanh Liêm đã lỡ rồi

Vùng ta thôi củng lụt mà thôi

Gạo năm ba bát cơ còn kém

Thuế một hai nguyên dáng chửa đòi…

Như vậy ta thấy, qua thi văn Nguyễn Khuyến, tác giả đã chứng tỏ một tấm lòng yêu nước chân thành. Nguyền Khuyến đã không hổ danh một vị ông Tam Nguyên, đại biểu cho giai cấp sĩ phu trong lúc quốc phá gia vong. Ngày nay đọc lại những vần thơ trong đó biểu lộ, khi thì nồng nàn hiển hiện khi thì bóng gió xa xôi, lòng tác giả thiết tha rung động với non sông, với dân tộc trong cơn bĩ cực, ta càng thấy yêu mến nhà nho và nhà thơ nổi danh của làng Yên Đổ.

Lòng yêu nước của Nguyễn Khuyến biểu lộ trong thơ văn của ông như thế nào? Hãy phân tích và dẫn chứng – Bài làm 2

Yêu nước là yêu chủ nghĩa Xã hội như những người Cộng sản vẫn ra rả bấy lâu nay thì chúng ta sẽ mất nước vào tay những kẻ bên kia biên giới nhân danh chủ nghĩa Xã hội đã âm thầm lấm chiếm của ta từng mét đất ở biên cương, đã trắng trợn cướp không của ta từng hải lí biển ở ngoài khơi. Và Nhà nước Việt Nam cộng sản cũng vì chủ nghĩa Xã hội thản nhiên cắt đất đai hương hỏa của Cha Ông ta cho nước cộng sản cùng ý thức hệ!

Yêu nước là yêu từ hơi may của đất trời Việt Nam: Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội / Những phố dài xao xác hơi may (Nguyễn Đình Thi). Yêu từ mùi trầu thơm nồng của mẹ: Xin mẹ cứ nhai trầu / Cho buổi chiều yên tĩnh (Thanh Thảo). Thì đất nước Việt Nam mãi mãi còn là của người Việt Nam. Nguyễn Khuyến (1835 – 1909) là một người yêu nước như vậy.

Yêu từ cánh bèo trên mặt ao đìu hiu mùa thu, Nguyễn Khuyến đã từ chức quan thời đất nước đã rơi vào tay giặc Pháp để về giữ nước bằng cách hòa vào nhân dân, đắm trong thiên nhiên đất nước. Trở về vui buồn cùng dân là khi Nguyễn Khuyến đã ở vào mùa thu cuộc đời. Soi mùa thu đời mình vào mùa thu đất nước, Nguyễn Khuyến đã để lại những bài thơ đặc sắc nhất về mùa thu Việt Nam, để lại chiếc bóng lồng lộng trong mùa thu Việt Nam.

Mỗi lần nhận ra hơi may se se trong ngọn gió thu về, tôi lại bâng khuâng nhớ Nguyễn Khuyến. Nhìn màn sương bảng lảng chiều thu, tôi lại thấy chiếc bóng Nguyễn Khuyến đơn độc giữa những chiếc lá vàng tả tơi rụng rơi.

Sinh năm 1835, đỗ tiến sĩ năm 1871 khi mới ba mươi sáu tuổi, một con đường công danh rạng rỡ mở ra trước mặt ông Nghè trẻ tuổi, tài hoa và có chí là Nguyễn Khuyến. Nhưng Nguyễn Khuyến chỉ làm quan có mười hai năm rồi cáo bệnh rũ áo từ quan lui về Vườn Bùi chốn cũ vừa muốn buông xuôi mọi nhẽ, vừa canh cánh không yên:

Lúc hứng uống thêm ba chén rượu

Khi buồn ngâm láo một câu thơ!

Chí bình sinh của kẻ làm trai được cửa Khổng sân Trình giáo dục là Tu thân – Tề gia – Trị quốc – Bình thiên hạ, học hành thấu đáo đạo lí ở đời, ổn định gia thất, đỗ đạt khoa bảng rồi gánh vác việc dân việc nước. Đó là cách bộc lộ lòng trung quân ái quốc, cách mang tài năng và chí trai ra giúp ích cho đời.

Con người đã dành gần ba mươi năm của cuộc đời vào việc học hành tích lũy kiến thức, rèn luyện đức độ và tài năng đâu phải để về nhà tựa gối buông cần! Con người đã vài lần thi hỏng Bốn khoa thi cử không đâu cả nhưng vẫn quyết chí lều chõng và đã đỗ cao không phải chỉ để lấy tiếng! Con người đã nhiều lần tỏ ra rất bằng lòng, rất kiêu hãnh về việc đỗ đạt và làm quan. Rất bằng lòng nên: Rằng lão, rằng quan tớ cũng ừ, và Rằng quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu. Và rất kiêu hãnh:

Cờ biển Vua ban cho ngày trước

Khi đưa thày con rước đầu tiên .

Thế mà con người ấy đã bỏ dở con đường hoạn lộ giữa tuổi bốn mươi tám suy nghĩ đã chín chắn, Tứ thập bất hoặc, lẽ đời đã thấu đáo, đã kín mọi đường mọi nhẽ, không còn điều gì phải hoang mang, nghi ngại, cái tuổi đã gần tới Ngũ thập tri thiên mệnh, tuổi thấu được mệnh trời đất, đã nhìn ra khắp thiên hạ. Tuổi trí lự đang chín, đang làm việc, suy xét tốt nhất lại rũ áo từ quan để trở về mà day dứt:

Xem thêm:  Nghị luận xã hội về “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”

Ơn Vua chưa chút báo đền

Cúi trông hổ đất, ngửa lên thẹn Trời!

Trở về với nỗi buồn, nỗi phẫn của kẻ chưa thỏa chí:

Khi buồn ngâm láo một câu thơ!

Khi Nguyễn Khuyến phải rũ áo từ quan là lúc triều đình nhà Nguyễn ươn hèn khiếp nhược đã nhục nhã kí với Pháp hòa ước Harmand đặt Việt Nam dưới sự bảo hộ của Pháp. Kí hòa ước này, một lần nữa triều đình Huế đã kí bản giao kèo đánh đổi cả sinh mạng đất nước, cả số phận dân tộc cho Pháp để giữ lấy cái ngai vàng mục ruỗng của mình. Từ đấy dải đất Việt Nam ngàn lần yêu thương đã thuộc về người Pháp. Từ đấy vua quan nhà Nguyễn chỉ là một đám bù nhìn, một lũ tay sai cho bọn cướp nước, chỉ còn là một lũ hề của lịch sử, của sân khấu chính trị:

Vua chèo còn chẳng ra gì

Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề!

Không thể trơ mặt ra mà cố đấm ăn xôi, không thể nhẫn tâm làm thứ hề ấy:

Nếu trơ như đá thì đâu khổ

Còn chút lương tâm mới khó nguôi!

Lương tâm này với cái chính trường đã thành sân khấu hề kia chẳng thể chấp nhận nhau được nữa:

Cờ đương dở cuộc không còn nước

Bạc chửa thâu canh đã chạy làng!

Thôi về đi để khỏi bán mình cho danh lợi, để lánh xa chốn bon chen! Về đi để giữ trọn tấm lòng trung trinh với nuí sông đất nước, giữ sạch lương tâm với đời:

Về nơi vườn rộng lòng ta thỏa

Việc thế nghe qua chỉ mỉm cười!

Cả những ai còn chút lương tâm, còn chút lòng yêu nước thương dân, còn chút lòng tự trọng, thôi cũng về đi:

Thu qua bác Huyện bỏ về rồi

Nay đến ông Thương cũng tháo lui.

Về sống với nhân dân, với bà con làng xóm, với những con người bình dị, chân chất, những người nếu có tên gọi riêng thì cũng chỉ là những chú Đáo, mẹ Mốc, ông Từ. Về sống với thiên nhiên đất nước, với ngõ trúc, ao thu. Bây giờ chỉ có những thứ quan như Nguyễn Hữu Độ, Hoàng Cao Khải cam tâm làm tay sai cho giặc. Làm quan như thế là đối lập với nhân dân. Trở về để hòa vào với đất nước, hòa vào với nhân dân, quan nhất thời, dân vạn đại, hòa vào với cái vạn đại, cái vĩnh cửu. Từ đây Nguyễn Khuyến gắn bó cả đời mình với những người dân Sớm trưa dưa muối cho qua bữa, gửi cả hồn mình vào cảnh sắc thiên nhiên Song thưa để mặc bóng trăng vào.

Có trở về như thế Nguyễn Khuyến mới nhận ra được ở cảnh sắc quê hương cái riêng biệt, cái hồn vía Việt Nam. Vì thế chỉ đến Nguyễn Khuyến, cái hồn của thiên nhiên Việt Nam mới được nhận ra, mới được ghi nhận bằng ngôn ngữ nôm na của những người dân bình dị. Trước Nguyễn Khuyến, mùa thu Việt Nam đã đi vào thơ ca khá nhiều nhưng mùa thu trong thơ vịnh của những nhà thơ khoa bảng còn quá xa lạ với hiện thực thiên nhiên Việt Nam, lại càng xa lạ với lời ăn tiếng nói đầy biểu cảm của người dân Việt Nam khi mùa thu Việt Nam đầy bâng khuâng gợi cảm lại diễn tả bằng hình ảnh ước lệ vay mượn xa lạ, bằng ngôn từ khoa trương, hào nhoáng, sáo rỗng và vô hồn: Lác đác ngô đồng. Nhạn về ải Bắc. Giếng ngọc sen tàn. Rừng phong lá rụng. Tuyết đưa hơi lạnh. Gió phẩy mưa băng. Bên hoa triện ngọc. Dưới lệ rèm châu . . . Những cảnh sắc không có trong không gian nhiệt đới Việt Nam. Những ngôn từ không có trong từ vựng của người dân nước Việt chân chất, mộc mạc. Có sự trở về với dân gian của Nguyễn Khuyến, thơ ca Việt Nam mới thực sự có mùa thu Việt Nam.

Nguyễn Khuyến có đến ba bài thơ mùa thu Việt Nam. Thu vịnh là buổi sáng chớm thu. Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao, vòm trời mấy tầng cao và xanh ngắt là vẫn còn không gian của mặt trời sáng chói huy hoàng từ mùa hè rớt lại. Thu điếu là buổi chiều thu tàn, không khí đìu hiu và lạnh lẽo của Thu điếu chỉ có ở cuối thu. Thu ẩm là buổi tối giữa thu, Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe. Buổi tối mùa thu gợi cảm quá nên phải có rượu, Độ năm ba chén đã say nhè. Mỗi bài là một bức tranh khá tiêu biểu về mùa thu. Mỗi bài là một cung bậc tình cảm của một tâm hồn đa cảm trước tiết thu gợi cảm. Mỗi bài là một chiếc bóng Nguyễn Khuyến soi vào thiên nhiên đất nước. Mỗi bài có một vị trí tình cảm, một giá trị nghệ thuật riêng. Bài nào cũng hay. Bài nào cũng thấm đẫm tình yêu của Nguyễn Khuyến với đất trời quê hương. Tiêu biểu hơn cả cho mùa thu ở làng quê Việt Nam là bài Thu điếu:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.

Sóng biếc theo làm hơi gợn tí, 

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt, 

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.

Tựa gối, buông cần lâu chẳng được, 

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Đây là mùa thu ở làng quê miền Bắc bởi vì chỉ ở làng quê miền Bắc mới thực sự có sự khác biệt xuân, hạ, thu, đông, mỗi mùa một sắc thái riêng biệt. Miền Trung mùa thu là mùa mưa lũ lụt lội, nước sông cuồn cuộn phù sa và nước mưa làm đục ngầu ao hồ nên không thể có Ao thu lạnh lẽo nước trong veo. Ở miền Nam chỉ có hai mùa phân biệt theo mưa nắng, mùa mưa và mùa khô. Mùa khô đã chang chang nắng nhưng mùa mưa cũng nắng mưa đan xen, chợt mưa, chợt nắng. Dù có mùa mưa, mùa khô nhưng mùa nào cũng nắng nóng. Mưa đã ồn ào, nắng lại càng nồng nàn, không thể có không gian sâu lắng và tĩnh lặng của Ao thu lạnh lẽo nước trong veo.

Xuân, hạ, thu, đông, mỗi mùa một không gian tâm linh, mỗi mùa một thế hiệu tình cảm. Mùa xuân náo nức. Mùa hạ khắc khoải. Mùa thu bâng khuâng. Mùa đông hiu hắt. Ao thu lạnh lẽo nước trong veo. Bâng khuâng quá! Bâng khuâng vì không gian yên tĩnh đến hoang vắng! Không có gì khuấy động nước ao mới trong veo đến thế! Những gì là vẩn, là đục đã chìm xuống, lắng lại cả rồi! Những gì khuấy động trong lòng cũng đã chìm xuống, lắng lại cả rồi nên mới có thể Việc thế nghe qua chỉ mỉn cười! Mùa thu của đất trời nhưng cũng là mùa thu của tâm hồn, mùa thu của cuộc đời Nguyễn Khuyến. Nguyễn Khuyến nhìn mùa thu của đất trời cũng là nhìn vào mùa thu của hồn mình, mùa thu của đời mình.

Xem thêm:  Phân tích vẻ đẹp cổ điển mà hiện đại trong bài thơ “Tràng Giang” của Huy Cận

Mùa thu ấy yên tĩnh lắm, thanh thản lắm! Thuyền chỉ một chiếc thôi chứ không phải là hai, ba để mà xôn xao đối đáp. Phần động cũng chỉ động ở mức thấp nhất. Mặt nước chỉ hơi gợn. Chiếc lá chỉ khẽ đưa. Những nhịp dao động này như những hơi thở cố nén xuống càng làm tăng thêm sự tĩnh mịch của không gian. Người ngồi câu là một người đã từng trải, đã vượt qua mọi sự nhốn nháo trường đời, đã rũ bỏ mọi bon chen ham hố chốn danh lợi mới có thể thanh thản và điềm tĩnh đến thế, mới có thể tựa gối buông cần im phắc đã lâu chẳng được gì vẫn không bận tâm, vẫn không sốt ruột. Xem như thế đủ biết người đi câu không phải vì mục đích kiếm cá mà chỉ là để được đắm mình vào thiên nhiên đất nước, đắm mình trong tiết thu sâu lắng và say đắm.

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo. Đọc một câu đã thấy đìu hiu cô quạnh. Đọc cả bài càng thấy cô quạnh đìu hiu. Đây là mùa thu đã gần tàn, mùa đông đang gần đến. Trong tiết trời lạnh lẽo, se xắt, mọi vật như cố thu nhỏ lại còn vòm trời thì cứ rộng mãi ra. Cảnh vật hiện ra đều ở dạng đơn chiếc, đều thu vào cá thể. Một mảnh ao. Một chiếc thuyền. Một người ngồi câu lặng lẽ. Một chiếc lá khẽ rơi. Con thuyền bé tẻo teo, đến con sóng cũng chỉ hơi gợn tí. Mọi vật đều nhỏ nhoi, bé bỏng giữa cái mênh mông quạnh vắng của không gian cao rộng Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt và sâu hút Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. Sau mùa xuân ồn ào của tuổi thơ bầy đàn, sau mùa hạ rạo rực của tuổi thanh niên lứa đôi mới đến mùa thu yên tĩnh của ý thức cá nhân. Đó là mùa thu của cuộc đời Nguyễn Khuyến.

Trong bài giới thiệu cho tập Thơ văn Nguyễn Khuyến của nhà xuất bản Văn Học in năm 1971, nhà thơ Xuân Diệu viết: Sao lắm ao thế? Cả huyện Bình Lục là xứ đồng chiêm rất trũng kia mà. Nhiều ao cho nên ao nhỏ, ao nhỏ thì thuyền câu cũng theo đó mà bé tẻo teo. (trang 44) Xuân Diệu là người bình thơ hay nhất Việt Nam ở thời của ông. Với tất cả lòng kính trọng đối với một nhà thơ có tài và một người thẩm thơ tinh tế, tôi phải xin thưa lại rằng Xuân Diệu viết như thế là mới thấy phần vật chất, phần thể xác của câu thơ Nguyễn Khuyến, của cảnh sắc trong thơ Nguyễn Khuyến. Rõ ràng ao thì phải nhỏ. Nếu lớn đã gọi là hồ. Ở ao không thể có thuyền lớn. Nhưng vấn đề không phải ở phần xác cụ thể, thô thiển đó. Trong không gian đất trời bâng khuâng cô quạnh của mùa thu, trong cõi lòng yên tĩnh, sâu lắng của Nguyễn Khuyến, dù có chiếc thuyền lớn có sức chở hàng nghìn tấn đi nữa thì nó cũng chỉ bé tẻo teo mà thôi!

Cô quạnh, yên tĩnh, sâu lắng của không gian mùa thu. Cô quạnh, yên tĩnh, sâu lắng tự trong lòng người tựa gối buông cần: Đời loạn đi về như hạc độc / Tuổi già hình bóng tựa mây côi! Cõi lòng Nguyễn Khuyến trong mùa thu đất nước, trong mùa thu cuộc đời ông đấy! Đọc câu thơ Nguyễn Khuyến viết về cõi lòng mình càng thấy bóng ông đơn độc mà lồng lộng trong mùa thu Việt Nam. Mùa thu ở làng quê Việt Nam thật đồng điệu với cõi lòng Nguyễn Khuyến. Ta mới hiểu vì sao Nguyễn Khuyến có cả thơ về mùa xuân, mùa hè, mùa đông nhưng thơ mùa thu của ông nhiều hơn cả, hay hơn cả. Nguyễn Khuyến là một mùa thu Việt Nam cô quạnh và se buồn. Mùa thu ấy đã trở thành cổ điển và bất tử trong văn chương Việt Nam.

Bây giờ mỗi khi nghĩ đến Nguyễn Khuyến tôi vẫn hình dung ra một ông già ôm cần câu ngồi bó gối trên chiếc thuyền nan mỏng manh như một chiếc lá đậu chếch trên mặt nước ao lặng lẽ. Lòng thuyền sau lưng ông già không có một con cá nào, cũng chẳng hề có giỏ đựng cá, chỉ có mấy chiếc lá vàng rụng xuống đó tự bao giờ, mặt lá vẫn còn láng bóng, vàng hoe. Mấy chiếc lá vàng nhắc ta biết mùa thu đã về. Mấy chiếc lá vàng cũng cho ta biết rằng ông ngồi đó đã lâu lắm rồi. Và ông còn ngồi đó không biết đến bao giờ nữa.

Bóng Nguyễn Khuyến cứ lồng lộng trong mọi mùa thu buồn Việt Nam ở cái thuở nhân dân chưa được làm chủ đất nước của mình, chưa được làm chủ vận mệnh của chính mình. Ông ngồi đó có u buồn nhưng thật điềm tĩnh bởi ông hiểu và tin ở đất nước này, nhân dân này. Ông là phần yên tĩnh của đất nước đang trong cơn xáo động, vật vã quyết liệt. Cõi lònh yên tĩnh đến thế, tâm hồn cao cả sáng trong đến thế Nguyễn Khuyến mới có thể chối bỏ chức quan trông coi viện Sử trong cung đình nhà Nguyễn để trở về với Thu điếu, với Khổ nhiệt, với Hung niên. . . , trở về với cuộc sống gian nan vất vả của người dân thường để giữ cho mình vẫn còn là con người Việt Nam chân chính, được yêu đất nước của mình, được yêu nhân dân của mình và được sống giữa tình yêu của nhân dân:

Chú Đáo làng bên lên với tớ

Ông Từ xóm chợ lại cùng ta.

Bài liên quan

Tìm hiểu về bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Tìm hiểu về bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm – Bài làm 1 Loading……
So sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều

So sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều

So sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều trong đoạn trích Chị em…
Phân tích tâm trạng nhân vật trữ tình trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu

Phân tích tâm trạng nhân vật trữ tình trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu

Phân tích tâm trạng nhân vật trữ tình trong bài thơ Vội vàng của Xuân…
Phân tích hai khổ thơ cuối bài Tràng Giang của Huy Cận

Phân tích hai khổ thơ cuối bài Tràng Giang của Huy Cận

Phân tích hai khổ thơ cuối bài Tràng Giang của Huy Cận – Bài làm…

Bình luận

Địa chỉ email của bạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *