Phân tích bài “Khóc Dương khuê” của Nguyễn Khuyến

Phân tích bài “Khóc Dương khuê” của Nguyễn Khuyến – Bài làm 1

Loading…

Bác Dương thôi đã thôi rồi.

Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta

Mở đầu là cảm giác sửng sốt và nỗi “ngậm ngùi” của Nguyễn Khuyến trước sự ra đi đột ngột và vĩnh viễn của bạn mình – Dương Khuê, ở đoạn sau, cảm nhận ấy còn được nhắc lại.

van mau phan tich bai khoc duong khue cua nguyen khuyen Phân tích bài “Khóc Dương khuê” của Nguyễn Khuyến

“Làm sao bác vội về ngay.

Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời”

Câu “làm sao bác vội về ngay” trong nguyên tác bằng chữ Hán là “Hốt văn công phó chí” (1), dịch nghĩa là “Chợt nghe tin báo bác đã qua đời”. Câu thơ dịch không dùng chữ theo nghĩa đen “đã qua đời” mà theo nghĩa bóng “vội về ngay”. Cả bốn lần nói về cái chết của Dương Khuê, Nguyễn Khuyến đều cố tránh cánh diễn đạt trực tiếp về một mất mát đau lòng, một thực tế có vẻ phi lý nhưng lại hiển nhiên:

“…thôi đã thôi rồi” (câu 1)

Loading…

“…vội về ngay” (câu 25)

“…mãi lên tiên” (câu 28)

và “Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở” (câu 35).

Cuộc tử biệt sinh ly đem đến cho người đang sống một tâm trạng hai chiều bạn mất và mất bạn.

Cái chết của bạn sống lại trong lòng tác giả một quãng đời quan trọng với bao kỷ niệm tưởng đã lùi sâu vào dĩ vãng, từ những chuyện nghiêm chỉnh như thi cử đến những chuyện phóng khoáng như cuộc rượu, câu thơ, con hát… Quãng đời ấy lại gắn liền với một cục thế hết sức phức tạp và đen tối. Năm 1882. Hà thành thất thủ; năm 1883, thất thủ kinh đô: Hiệp ước Hác – măng (Harmand) rồi hiệp ước Pa – tơ – nốt (Patennôtre) nhục nhã… Hầu như cơn giông tố ba đào “quốc biến” cứ dồn dập đuổi theo Tam Nguyên trẻ tuổi vừa mới xuất chinh (2).

Hai người kết bạn với nhau ít nhất cũng ba mươi tám năm kể từ khoa thi Giáp Tý (1864). Sau cái sự kiện năm 1883, mỗi người chọn lấy một cách xử thế. Nguyễn “cáo về” ở tuổi năm mươi, tuổi của sự dày dặn và chính chắn. Hai mươi bốn năm tiếp theo, ông là chính nhân đáng giá của lịch sử đất nước với hàng loạt vấn đề cũ và mới như nước mắt, dân nô lệ, nạn đói, kẻ sĩ biến chất, bọn cơ hội, tùy thời “bung ra” và lấn lướt…” bao nhiêu sự kiện phản ảnh vào ông bao nhiêu dằn vặt, tranh đấu trong tâm hồn ông!” (Xuân Diệu) (3). Thơ văn ông đẫm lệ nhân sinh và vũ trụ. Dương ở lại theo “phận đẩu thăng”, thơ văn nặng mùi hưởng lạc. Như vậy, ba mươi tám năm bầu bạn, họ không phải luôn luôn và hoàn toàn tượng tri, tương đắc. Nhất là khoảng thời gian mười chín năm cuối với vấn đề nổi cộm là họ Dương ở lại công tác với kẻ thù dân tộc (?). Dĩ nhiên, họ Dương không thuộc “ê kíp” (4), những tên nhồi tro xác cụ Phan vào thuốc súng rồi bắn xuống “Lan Giang” (4) những kẻ bày trò văn chương thi vịnh Kiều đề đánh hỏa mù vấn đề chính trị (5).

Một câu hỏi lý thú được đặt ra là: Nguyễn Khuyến nhìn nhận bạn như thế nào mà luôn một lúc “sáng tác một bài Nôm song song với bài chữ” (6) để “Khóc Dương Khuê”, bài nào cũng hay và bài thơ dịch còn được đánh giá là áng văn vào hàng hay nhất về tình bạn trong Văn chương nước nhà?

Những câu thơ tuyệt vời dưới đây đâu phải là chuyện kỷ xảo hoặc tài chơi chữ mà sự chuyển tải những xao xuyến tâm hồn, một tiếng khóc chân thành:

“Rượu ngon không có bạn hiền.

Không mua không phải không tiền không mua.

Câu thơ nghĩ đắn đo muốn viết.

Viết đưa ai, ai biết mà đưa?

Giường kia treo cũng hững hờ.

Đàn kia gẩy củng ngẩn ngơ tiếng đàn”.

Một câu lục bát chỉ mười bốn tiếng, có đến năm từ “không” lặp đi lặp lại nỗi tiếc bạn không nguôi, nỗi đau mình cô độc trước cuộc đời bất như ý. Còn ai để giải bày tâm sự: “viết đưa ai” và còn ai có thể hiểu được mình “ai biết mà đưa?” Nỗi cô đơn của tác giả đã vượt quan hệ Dương – Nguyễn lớn lên thành nỗi đau đời! Thực dân Pháp đã ngồi yên chỗ, ngọn cờ cần Vuơng đã ngã xuống… trong tâm trạng lớp người như Yên Đổ, đại cục của đất nước coi như đã hỏng. Âu trong nỗi buồn mất bạn là nỗi buồn nhân thế, một nỗi buồn thế kỷ. Điều ấy giải thích vì sao tác giả đã tìm được sự đồng cảm của nhiều thế hệ bạn đọc. “Đàn kia” có “gẩy” nữa cũng chỉ làm “ngẩn ngơ” những ai đang “ngất ngơ, lơ láo” trong cảnh “ngày loạn, người cùng”(7). Nỗi buồn nhân thế ấy đã được tác giả khái quát vào một câu thơ đậm chất triết lý: “Ai chẳng biết chán đời là phải”. Không chán sao được khi cái đạo của đời thì đang sụp đổ, còn mình thì:

“Nghĩ đến bút nghiên trào nước mắt

Ngước nhìn sông núi xiết buồn đau!” (8)

Trở lại câu hỏi đã được đặt rạ.

Nguyễn Khuyến vẫn giữ một tình bạn chân thành “từ trước đến sau”, thủy chung như nhất. Ông hết sức ân cần với bạn:

Cầm tay hỏi hết xa gần.

Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can.

Và thực sự đau xót khi nhận được tin chẳng lành:

“Chợt nghe, tôi bỗng tay chân rụng rời”

Nhưng, Nguyễn Khuyến cũng có một thái độ rạch ròi trong việc Dương Khuê ra hợp tác với Tây. Có điều thái độ đó được chuyển tải ra câu chữ hết sức kín đáo và tinh tế.

Tác giả dành hai mươi câu thơ (từ câu 3 đến câu 22) trên tổng số ba mươi tám câu toàn bài để nói về ba mươi tám năm hai người là bạn của nhau. Mười sáu câu trên nói về mười chín năm đầu, lúc cuộc đời dù sao vẫn còn suôn sẻ, khi cả hai tuổi xuân đang phơi phới. Ở tám câu còn lại thì bốn câu cuối (các câu 19,20,21,22) nhắc lại lần gặp nhau gần nhất. Không bao giờ là lần cuối, lần vĩnh biệt. Bốn câu trên (các câu 15,16,17,18) tóm lược chín năm cuối cùng kể từ cái mốc 1883: “Buổi dương cửu… thì thôi mới là!”

Mười chín năm va đập trong cơn quốc biến, chính là lúc vàng đưa vào lửa, lúc nhân cách con người được thử thách trước vận hạn “nước loạn, nhà nghèo”. Lẽ nào lại “dám than trời” cái “phận đẩu thăng?”. Lẽ nào phải đi xin giống khác miếng ăn, “ăn vào thì lại nhục”(9). Vẫn biết, mỗi người có một cảnh ngộ, có kẻ vì cơm áo, có người mất lòng tin và dũng khí… an phận “sáng vác ô đi, tối vác về”. Nguyễn Khuyến cũng nghèo, gốc gác vốn nghèo, làm quan thanh liêm, về già có người “cho thịt” mà ông “ôm mặt khóc”. Khóc vì “Những nỗi cực nhục ở trên đời” (Xuân Diệu) (10). Đối với kẻ sĩ chân chính, danh tiết còn nặng hơn hình hài. “Nghèo chứ không khốn khổ. Kẻ sĩ không thi hành đạo đức thì mới khốn khổ (Trang Tử) (11). Vả lại, rộng và lớn hơn khuôn khổ chữ trung cũ kỹ đối với một dòng họ, một triều đại, vượt khỏi cấp độ truyện cổ “Bá Di, Thúc Tề”, đây là vấn đền nỗi nhục của quốc gia Đại Việt văn hiến. Trước họ mấy thập kỷ, Đồ Chiểu đã dứt khoát: “Thà đui mà giữ đạo nhà”, “thà thác mà chẳng đầu Tây” (12)… Dương Khuê không hẳn không biết Nguyễn Khuyến từng băn khoăn “về hay ở?” (13), “Mừng thấy các ông lùi mạnh bước” (14), mừng thấy “Đạo ta có lẽ chưa cùng chăng?” (15), “Khóc Dương Khuê” không phải là việc “đập cổ kính…” (16) mà đây là lần cuối nói với nhau một lời phải, lúc đậy nắp quan tài cho người đã khuất:

Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là!” (câu 18)

Câu thơ dịch trên, nguyên văn chữ Hán là “Giải tổ quy điền viên”, dịch nghĩa “Cởi dây ấn về với ruộng vườn”, ý tứ rõ ràng cụ thể. Câu thơ dịch thanh thoát, ngôn từ dung dị, nhạc điệu uyển chuyển mềm mại làm cho ý nghĩa “co giãn”, vừa mang sắc thái triết lý, vừa là một lời trách cứ nhẹ nhàng nhưng dứt khoát.

Không ai có thể dịch đúng ý tác giả hơn chính tác giả, nhất là đối với con người “nếu ngày xưa có thi thơ Nôm thì Nguyễn Khuyến lại đoạt thêm một cái bảng vàng Tiến sĩ thơ Nôm nữa, chứ chẳng chơi!” (17).

Phân tích bài “Khóc Dương khuê” của Nguyễn Khuyến – Bài làm 2

Trong nền thơ hơn một nghìn năm của dân tộc Việt Nam, nhà thơ Nguyễn Khuyến có một vị trí thật vẻ vang. Ông là nhà thơ của những bài thơ Việt Nam đích thực, những bài thơ mà ở đó, những tình cảm đẹp đẽ của con người Việt Nam được diễn tả bằng một thứ ngôn ngữ Việt Nam thuần khiết, giản dị và đẹp đẽ. Trong những bài thơ ấy, cần phải nói (tên một bài thơ không mấy ai không biết: bài Khóc Dương Khuê).

Xét cho cùng, tình bạn giữa hai người Nguyễn Khuyến và Dương Khuê vốn không phải là một tình bạn thật hoàn toàn như ý. Tuy đỗ cử nhân cùng khoa thi với Nguyễn Khuyến, rồi đỗ tiến sĩ, cùng làm quan cho triều Nguyễn, nhưng sau năm 1884, năm đất nước thật sự mất vào tay thực dân Pháp, Dương Khuê lại không có được cái chí như Nguyễn Khuyến. Không cáo quan về làng, Dương Khuê tiếp tục làm quan cho triều đình tay sai thực dân cho đến tận lúc qua đời ở tuổi 64 (1902).

Tuy vậy, nói thế là để nhìn rõ hết mọi chuyện. Người Việt Nam ta vẫn có câu: nghĩa tử là nghĩa tận. Cái chết đột ngột của Dương Khuê đã thật sự li: một nỗi đau cho Nguyễn Khuyến. Lúc ấy, quên hết mọi điều, ông chỉ còn biết một điều duy nhất: ông đã mất một người bạn thân, mất một nguồn tình cảm quí giá không thế lấy gì thay thế được. Lúc ấy, tự đáy lòng, từ nột tình bạn mà hình như chính ông cũng không thể đo lường hết chiều sâu, Nguyễn Khuyến đã chợt kêu lên những tiếng kêu thảng thốt:

Bác Dương thôi đã, thôi rồi,

Nước mây man mác, ngậm ngùi lòng ta.

Hầu như không có một chút vãn chương chữ nghĩa nào trong hai dòng thơ trên, đặc biệt là dòng thơ thứ nhất. Chỉ có nỗi đau, nỗi đau chân thành, trọn vẹn, tự mình thể hiện ra thành lời. Hai tiếng “thôi” dân dã và tự nhiên, cứ như bật lên từ lời nói của một người dân quê bình dị nào đó. Đặt câu thơ này vào trong hoàn cảnh xã hội mà sự “cao nhã“ luôn luôn được coi là một yêu cầu hàng đầu của văn chương, ta càng thấy ở đây sự chân được nhà thơ coi trọng đến chừng nào. Nói đến cái chết, ông không dám động đến từ “chết”. Trời đất cao dày ơi lẽ nào chuyện ấy đã đến thật rồi sao? “Thôi đã… thôi rồi”! Thế là hết! Thật thế rồi! Một kẻ quyền quí ngày xưa khi lỡ tay làm rơi mất viên ngọc lưu li độc nhất vô nhị trong thiên hạ, có lẽ cũng chỉ kêu lên đau đớn đến như thế là cùng. Không đau nỗi đau thật, làm sao có thể khóc một tiếng khóc thật như thế được.

Có điều là, với nỗi đau, Nguyễn Khuyến không thét lên, tiếng khóc của ng là khóc với mình, khóc cho tự mình nghe, tiếng khóc lắng vào lòng. Tâm hồn vốn giản dị, ông chúa ghét sự ồn ào. Lúc này ông muốn ngồi một mình, đối diện với bạn, cùng nhắc lại tình bạn, cùng bạn ôn lại những gì đã từng có giữa hai người. Đã có bao nhiêu là kỉ niệm. Từ những ngày tường đã rất xa xôi:

Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,

Những sớm hôm tôi bác cùng nhau,

Kính yêu từ trước đến sau,

Trong khi gặp gỡ biết đâu duyên trời

Đó là kỉ niệm khi hai người vừa mới lần đầu gặp nhau trong khoa thi Hương và cùng thi đỗ. Nguyễn Khuyến quê ở Bình Lục, Hà Nam, Dương Khuê quê ở Vân Đình, Hà Đông, hai người vốn chẳng quen biết gì nhau. Thế mà, cứ như duyên trời định sẵn, tình bạn đã bắt đầu gắn bó từ đây. Chữ nghĩa của Nguyễn Khuyến sao mà bình dị đến thế, nôm na, thân mật đến thế! Nào là “lúc sớm hôm”, rồi là “tôi bác”, với những “cùng nhau”… Nhà thơ cũng xác định cái nhìn đầu tiên của mình về người bạn: đó là lòng kính yêu trọn vẹn, “kính yêu từ trước đến sau”.

Cùng với giọng kể lể chân thành như thế, nhà thơ nhắc lại với bạn về những kỉ niệm khác:

Cũng có lúc chơi nơi dặm khách,

Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo,

Có khi từng gác cheo leo,

Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang.

Kỉ niệm giừa đôi bạn như thế quả là rất nhiều, rất đậm. Họ đã từng cùng trải qua những giờ phút thú vị, chứng tỏ họ là những người bạn ý hợp tâm đầu, có tâm hồn biết thưởng thức và chia sẻ những niềm vui thanh cao của kẻ tao nhân mặc khách. Nhắc lại những kỉ niệm đó, tâm hồn nhà thư như còn rung cảm vì tiếng suối “róc rách lưng đèo” nơi “dặm khách” xa xôi. Nhà thơ như cùng đang sống lại với những cảm giác thích thú “nơi từng gác cheo leo”, lắng nghe tiếng đàn, tiếng hát của các đào nương. Có người sẽ hỏi: nhà thơ Nguyễn Khuyến mà cũng đi hát ả đào sao? Thi có gì đâu mà nhà thơ không đi hát ả đào! Hát ả đào là một thú vui trong xá hội phong kiến. Có lúc thú vui này bị người ta lợi dụng (thì trên đời thiếu gì điều tốt đẹp bị người ta lợi dụng). Tuy vậy, đối với đa số nhà Nho, đó lại là nơi để thưởng thức cái đẹp của lời ca, tiếng hát, tiếng đàn, cũng là nơi di dưỡng tâm hồn sau những tháng ngày gò mình trong khuôn khổ của chốn công danh, vốn được sáng tác để cho các đào nương hát lên đó sao? Nguyễn Khuyến không có những bài thơ như vậy, nhưng rõ ràng là ông đã không thể quên “thứ vui con hát”, bởi đó là thú vui được “lựa chiều cầm xoang”, trải lòng mình theo tiếng đàn, tiếng hát.

Xem thêm:  So sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều

Là đôi bạn đến với nhau, thân nhau vì lòng mến mộ lẫn nhau, tình bạn giữa Nguyễn Khuyến và Dương Khuê thật là chỗ tri âm tri kỉ, “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”:

Cũng có lúc rượu ngon cùng nhấp,

Chén quỳnh tương ăm áp bầu xuân,

Có khi bàn soạn câu văn,

Biết bao đông bích, điển phần trước sau.

Nói về việc cùng bạn uống rượu mà nhà thơ dùng từ “nháp”, lại “cùng nháp” thì thật chính xác và tinh tế, bởi đây là việc uống rượu của người “uống cho vui”, chứ không phải kiểu uống của các bợm rượu. Nhà thơ có lần đã tự nói về khả năng uống rượu của mình:

Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy

Độ năm ba chén đã say nhè.

(Thu ẩm)

Chén các cụ dùng uống rượu ngày xưa là loại chén rất nhỏ, thường được gọi là “chén hạt mít”. Nói “nhấp” tức là uống từng hớp nhỏ, như chỉ vừa chạm môi vào, vừa uống vừa ngẫm nghĩ, vừa uống vừa thưởng thức cái vị đậm, cái mùi thơm của rượu. Rượu uống chỉ như thế nhưng lại “ăm áp bầu xuân”. Bầu xuân này là bầu rượu và cũng là “bầu thơ“, bầu rượu đầy cho bầu thơ càng thêm lai láng. Hai tiếng “ăm ắp” mà nhà thơ dành cho bầu xuân” thật gợi cảm và sảng khoái. ‘‘Người thanh cái tiếng cũng thanh”, đến cách chơi cũng cho ta biết được bản chất con người, không phải bất kì ai cũng có được cái “rượu ngon cùng nhấp” ấy, nhất là cái căm nhận “ăm áp bầu xuân” ấy.

Thật là những ngày vui. Nhưng cũng có những ngày buồn, rất buồn. Đó là những ngày nước mất. Là nhà Nho, cùng phụng sự cho một triều đại, đôi bạn cùng chung chia sẻ nỗi đau của thời đại mình:

Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn

Phận đấu thăng chẳng dám than trời

Bác già, tôi cũng già rồi

Biết thôi thôi thế thì thôi mới là!

Những câu thơ của Nguyễn Khuyến đọc lên nghe thật buồn bã, ngao ngán. Nói “buổi dương cửu” để chỉ thời kì loạn lạc khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, nhà thơ coi đó như là một vận hạn mà đất nước và con người phải trải qua. Không làm gì được trước vận hạn ấy, nhà thơ chỉ  còn một cách lựa chọn là rời bỏ công danh, chẳng còn dám tham cái lộc trời “thăng đấu” của kẻ làm quan. Nhà thơ nói như một kẻ an phận mà nghe ra thật đau đớn. Ông cảm thấy mình bất lực, cảm thấy mình đã già. Đặc biệt câu thơ cuối đoạn, có đến ba từ “thôi” trùng diệp, khác nghĩa nhau mà như cùng một nghĩa, bổ sung cho nhau, tạo ra ấn tượng về một tâm trạng cam chịu thật nặng nề: Biết thôi- thôi – thế thì thôi. Đúng là tâm trạng của nhà thơ khi cáo quan về làng và cho đến cả những năm sau này: đau buồn trước cảnh nước mất nhưng không có thể làm gì cho đất nước ngoài việc từ quan để khỏi làm việc cho kẻ thù.

Qua 16 dòng thơ, Nguyễn Khuyến đã nhắc lại một cách cô đọng và đầy đủ về mối quan hệ bạn bè giữa đôi bạn Nguyễn Khuyến – Dương Khuê, đặc hiệt là độ sâu, độ bền của tình bạn đó. Những kỉ niệm đã được nhà thơ nói tới mọt cách giản dị nhưng đầy trân trọng. Nhắc lại những kỉ niệm ấy, ôn lại và ngẫm nghĩ về tình bạn ấy, nhà thơ cảm thấy nỗi đau mà mình phải chịu hôm nay thật là một điều vô lí. Ông chưa bao giờ hình dung ra sự mất mát có thể xảy đến vào lúc này. Nhà thơ nhớ lại:

Muốn đi lại tuổi già thêm nhác

Trước ba năm gặp bác một lần

Cầm tay hỏi hết xa gần

Mừng rằng bác hãy tinh thần chưa can.

Xét về rnặt văn chương, bốn dòng thơ trên không phải là những câu thơ thật mới lạ sắc sảo, bởi những câu thơ ấy sao mà nôm na bình thường, nào la “tuổi già thèm nhác”, rồi lại “hỏi hết xa gần”, với lại “tinh thần chưa can”, cứ như lời lẽ cua một ông lão quê mùa nào đó ở vùng đất Hà Nam. Thì đúng vậv, Nguyễn Khuyến có làm văn chương đâu, ông chỉ bộc lộ nỗi niềm của mình! Nhà thơ còn tự mình lí sự với mình:

Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác

Tôi lại đau trước bác mấy ngày

Làm sao bác vội về ngay

Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời!

Chỉ khi người ta đau đớn thật lòng, người ta mới có kiểu lí sự như vậy. Như thế có khác gì nói rằng: tại sao bác lại chết trước tôi nhỉ? Người chêt trước lẽ ra phải là tôi chứ? Chính từ những lí sự này, mấy tiếng cuối cùng của đoạn thơ nổi lên thật chân thành và ai oán:

Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời!

Trước nỗi đau dã là sự thật, nhà thơ đành chấp nhận nồi đau và càng thấy điều này là thật vô lí:

Ai chẳng biết chán đời là phải

Vội vàng chi đã mải lên tiên

Rượu ngon không có bạn hiền

Không mua không phải không tiền không mua.

Cái chết là một quy luật không ai có thể phủ nhận được. Tuy vậy, trong trường hợp này, Nguyễn Khuyến vẫn tìm thấy sự vô lí: cái chết của người bạn đã đến một cách vội vã quá, nó cướp mất của ông một người bạn hiền và như thế, cũng cướp mất của ông tất cả mọi niềm vui. Câu thơ của ông nói về trường hợp riêng của mình, nghe thật giản dị mà vang lên nhơ một chân lí về tình bạn đích thực ở đời:

Rượu ngon không có bạn hiền

Không mua không phải không tiền không mua

Trong hai dòng thơ, từ “không” xuất hiện đến năm lần như những cái lắc đầu buồn bã.

Không còn bạn, không còn thiết uống rượu, bởi không còn người để chia sẻ vị ngon của rượu. Không còn bạn, khóng còn hứng thú làm thơ, bởi vì sao?

Câu thơ nghĩ đắn đo muốn viết

Viết đưa ai, ai biết mà đưa?

Lắc đầu bằng những tiếng “không”, đến đây nhà thơ tiếp tục lắc đầu bằng những câu hỏi. Hỏi cũng là để nói “không”. Thơ viết ra mà không có người thưởng thúức được, cảm thông được, thì còn viết làm gì? Âm “iết” láy đi láy lại trong hai dòng thơ,rồi hai tiếng “ai”, hai tiếng “đưa” trung điệp (đưa ai – ai biết – mà đưa” cứ mở ra, khép lại, rồi lại mở ra, như một nỗi day dứt khôn nguôi.

Nhà thơ nghĩ đến những mối tình bạn mà sách vở xưa kia đã từng ca ngợi, coi nhơ tuyệt đỉnh của tình bạn: Trần Phồn đời Hậu Hán sau khi bạn ra về thì treo giường lên, không để cho ai ngồi vào cái giường chỉ dành riêng để tiếp bạn; Bá Nha sau khi Chung Tử Kì chết thì quyết bỏ không chơi đàn bởi thấy không còn ai hiểu được tiếng đàn. Ông thay mối tình giữa ông với Dương Khuê chính là một tình bạn như thế; sự mất mát của ông sau cái chết của Dương Khuê đúng là sự mất mát như thế:

Giường kia treo cũng hững hờ

Đàn kia gẩy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn

Có thể lấy gì để bù đắp vào sự mất mát này không? Nhà thơ đã khẳng định rằng không. Chỉ còn một cách, như người ta vẫn thưừng làm, là tìm cho mình một cách an ủi. Rằng người chết không còn có thể sống lại được, rằng nước mắt xót thương cũng sẽ chàng giúp được gì… Nguyễn Khuyến muốn dùng cái lẽ thường ấy của đời sống để tự an ủi mình:

Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở

Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương

Nhà thơ còn tự khuyên bảo mình:

Tuổi già hạt lệ như sương

Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!

Nhà thơ khuyên mình không nên khóc, bởi tuổi già còn ít nước mắt lắm, chỉ như những hạt sương mong manh thôi, làm sao có thể ép cho nước mắt tuôn chảy thành hai hàng chứa chan được. Nhưng nói như thế là nói lí. Tự nhà thơ vẫn hiểu rằng không thể “lấy nhớ làm thương” được, và càng hiểu ràng hai hàng nước mắt chứa chan của ông lúc này đâu phải do ông “ép lấy”. Mỗi chữ trong thơ ông đều đẫm đầy nước mắt, những hạt lệ từ một nỗi đau lớn, từ một tình bạn lớn.

Có thể khẳng định rằng trong thơ Việt Nam đã có rất nhiều bài thơ hay thể hiện tình cảm đẹp đẽ chân thành, nhưng cả cho đến nay, chưa có bài thơ nào nói về tình bạn có thể sánh bằng bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến. Cái hay ấy trước hết xuất phát từ một tình bạn đẹp và chân thành của một tâm hồn cao thượng. Cái hay ấy còn là cái hay của một nghệ thuật diễn đạt, một ngôn ngữ diễn đạt gian dị, tự nhiên,đầy tính dân tộc, hoàn toàn phù hợp với nội dung tình cảm mà bài thơ cần diễn đạt.

Phân tích bài “Khóc Dương khuê” của Nguyễn Khuyến – Bài làm 3

Trong lịch sử văn học Việt Nam, bài thơ Khóc Dương Khuê của nhà thơ Nguyễn Khuyến được xếp vào hàng những tác phẩm xuất sắc nhất viết về đề tài tình bạn.

Bao trùm bài thơ này là nỗi lòng đau xót khôn nguôi của tác giả, trước việc bạn qua đời.

Nguyễn Khuyến mở đầu bài thơ bằng một tiếng than thảng thốt:

“Bác Dương thôi đã thôi rồi,

Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta!

Tin bạn mất đột ngột quá, bất ngờ quá khiến nhà thơ sững sờ. Cách xưng hô ở câu thơ đầu khiến người đọc ít nhiều có thể đoán được đây là mối quan hệ bạn bè giữa những người cao tuổi.  Đúng vậy, khi Dương Khuê mất, Nguyễn Khuyến đã ngót 70 tuổi. Nỗi đau của người già, hơn nữa lại là một nhà nho luôn quen sống chừng mực, thâm trầm tất phải lận vào trong lòng, phải xoáy vào trong tim, ít khi phô ra bên ngoài. Bằng cách sử dụng nhiều tình thái từ một cách tự nhiên gợi cảm, nhà thơ không nói trực tiếp đến việc bạn mất, nhưng người đọc ai cũng hiểu. Đây là một cách nói giảm, dường như nhà thơ sợ không nhắc trực tiếp đến một sự thực phũ phàng. Hơn nữa, cụm từ “thôi đã thôi rồi” còn thể hiện tình cảm nuối tiếc lẫn sự bất lực của nhà thơ trước sự thật đau đớn. Mất bạn, Nguyễn Khuyến thấy không gian rộng lớn dàn trải, “nước mây” đâu cũng thấm đượm một nỗi buồn thầm lặng khôn nguôi: “Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta”.

Sau phút giây hàng hoàng ban đầu, dường như nhà thơ có phần trấn tĩnh. Nguyễn Khuyến nhớ lại những kỉ niệm gắn bó giữa hai người: những ngày thời đi học, đi thi, đỗ đạt… Nhà thơ cảm thấy sự gắn bó giữa mình và Dương Khuê như đã có “duyên trời định sẵn”. Nguyễn Khuyến và bạn đã từng đặt chân đến những vùng đất xa lạ, có tiếng suối “róc rách lưng đèo”, cùng thưởng thức thú đi hát ả đào “thú vui con hát lựa chiều cầm xoang”, cùng nhau uống rượu và bàn luận văn chương. Đặc biệt, họ đã cùng nhau sống trong cảnh đau khổ của đất nước: “Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn – Phận đẩu thăng chẳng dám than trời”. Viết câu thơ trên, khẳng định sự đồng cảnh giữa hai người, chứng tỏ Nguyễn Khuyến cảm thông sâu sắc nỗi lòng của bạn: cho dù vẫn làm quan với tân triều, nhưng đâu phải Dương Khuê không có ít nhiều nỗi chán ngán trước thế cuộc?

Bằng đoạn hồi tưởng này, người đọc có thể hình dung ra đôi bạn Nguyễn – Dương đều là những “tao nhân mặc khách” gắn bó keo sơn với nhau lâu bền từ lúc hàn vi tới khi vinh hiển. Những kỉ niệm được trình bày theo trình tự thời gian tạo nên ở người đọc ấn tượng về mối quan hệ liên tục bền vững trong toàn bộ cuộc đời của hai người. Trong tình bạn ấy có cả sự kính trọng, lẫn tình yêu mến “kính yêu”, thủy chung “từ trước đến sau”.

Xem thêm:  Ý nghĩa cái chết của hai nhân vật Chí Phèo và Bá Kiến

Nhà thơ còn nhớ rất rõ lần cuối cùng gặp gỡ người bạn già cách đây đã ba năm. Tác giả chỉ mô tả lần gặp gỡ này bằng một vài chi tiết:

“Cầm tay hỏi hết xa gần,

Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can”

Người đọc đủ hình dung ra hình ảnh thật xúc động của Nguyễn Khuyến đối với Dương Khuê. Nhà thơ ân cần hỏi han bạn đủ điều và mừng rỡ khi thấy bạn tuổi đã cao, song vẫn minh mẫn, tỉnh táo. Đây chính là nét đáng quý trong con người Nguyễn Khuyến, dù đã có khi đạt tới đỉnh cao danh vọng, tâm hồn nhà thơ vẫn bình dị, gần gũi, thương mến vợ con, bè bạn, xóm giềng… Chẳng cứ đối với Dương Khuê, tình cảm nhà thơ đối với Bùi Văn Quế (tức ông nghè Châu Cầu) cũng đằm thắm không kém. Nhân nước lụt, nhà thơ hỏi thăm bạn thật kĩ lưỡng, tỉ mỉ tựa hồ như một nhà nông chính cống thăm hỏi người ruột thịt cùng cảnh ngộ:

“Ai lên nhắn hỏi bác Châu cầu,

Lụt lội năm nay bác ở đâu?

Mấy ổ lợn con rày lớn bé ?

Vài gian nếp cái ngập nông sâu?

Thế rồi, Cụ Tam Nguyên tự xưng “Em” với ông bạn Châu Cầu và kể chuyện về mình một cách hóm hỉnh, dí dỏm:

Em cũng chẳng no mà chẳng đói,

Thung thăng chiếc lá rượu lưng bầu

(Lụt, hỏi thăm bạn)

Tình cảm chân thành, nồng hậu, chu đáo, lời lẽ mộc mạc… là những yếu tố quan trọng làm cho những bài thơ viết về tình bạn của Nguyễn Khuyến lay động trái tim người đọc. Ở bài Khóc Dương Khuê, tình cảm này tập trung ở phần cuối.

Hình ảnh Dương Khuê trong lần gặp gỡ cuối cùng vẫn sâu đậm trong tâm trí Nguyễn Khuyến. Nhà thơ cảm thấy việc bạn mất là phi lí. Tác giả tự hỏi:

“Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,

Tôi lại đau trước bác mấy ngày,

Lùm sao bác vội về ngay”.

Nhưng tiếc rằng điều phi lí, điều trái lẽ thường ấy đã là một sự thật. Chính vì phi lí nên sự đau xót, nuối tiếc càng được nhân lên gấp bội:

“Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời”.

Câu thơ buông ra một cách tự nhiên, khó có thể thấy đâu là kĩ thuật đặt câu dùng từ, nhưng đã diễn đạt thành công nỗi đau to lớn ập đến bất ngờ.

Cái chết của bạn làm cho nhà thơ thêm chán chường. Cuộc đời đầy những điều ngang trái, tuổi cao, lên tiên cũng là lẽ thường tình. Có điều, sao bạn nỡ vội vàng để người bạn già ở lại phải chịu sự trống vắng không gì bù đắp nổi? “Ai chẳng biết chán đời là phải – Vội vàng chi đã mải lên tiên”. Câu thơ có ý trách bạn, nhưng đằng sau đó còn là một tâm trạng khôn nguôi về thế sự. Tâm

trạng này không những bàng bạc trong tiếng khóc Dương Khuê, mà có khi còn được bộc bạch một cách trực tiếp hơn qua những câu thơ như: “Đời loạn đi về như hạc độc – Tuổi già hình bóng tựa mây côi” (Cảm túc), hay ” Bạn già lớp trước nay còn mấy? – Chuyện cũ mười phần chín chẳng như” (Cảm hứng)…

Tuổi già, mắt lòa, chân chậm, mối quan hệ vốn đã hạn hẹp; nay, mất bạn, nhà thơ càng đơn độc, chơ vơ:

“Rượu ngon không có bạn hiền,

Không mua không phải không tiền không mua”.

“Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,

Viết đưa ai ai biết mà đưa?”.

Ở đây nghệ thuật điệp từ đã mang lại hiệu quả đáng kể. Trong ba dòng thơ tổng cộng 21 chữ, “không” xuất hiện đến 6 lần, diễn tả tài tình tâm trạng trống vắng ghê gớm của con người. Đồng thời, cách kết cấu trùng điệp ở những câu thơ nói trên tạo được cảm giác nghe tiếng khóc nức nở không dứt.

Mất bạn, nhà thơ mất tất cả những gì hứng thú và thay đổi cả nếp sinh hoạt trong cuộc sống thường nhật: không uống rượu, không làm thơ, đàn không muốn gảy, giường phải treo lên. Như vậy, hỏi còn gì đáng sống? Những thay đổi ấy, chứng tỏ tác giả đã phải trải qua một cuộc khủng hoảng tinh thần quá sức chịu đựng bởi cái chết của bạn. Điều đó khẳng định tình bạn giữa hai người thật keo sơn gắn bó.

Nghệ thuật trùng điệp còn tiếp tục phát huy được hiệu quả cao hơn ở một số câu tiếp theo: “Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở – Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương”, tạo cho câu thơ có âm điệu tựa hồ như sóng biển từng đợt tràn lên rồi rút xuống, rồi lại tràn lên mạnh mẽ hơn diễn đạt thành công nỗi đau của nhà thơ càng về sau càng sâu xa, thống thiết.

Mở đầu bài thơ là tiếng kêu ngạc nhiên, kết thúc bài thơ là tiếng khóc:

“Tuổi già giọt lệ như sương,

Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan”

Sau bao nhiêu thăng trầm của cuộc đời đen bạc nay sắp trở thành người “cổ lai hi” (xưa nay hiếm), cụ Yên Đổ làm gì còn đủ nước mắt mà khóc bạn? Nỗi đau không tràn ra ngoài được, ắt phải lặn âm thầm vào bên trong trái tim nhà thơ. Nhà thơ nói là mình không khóc, nhưng dường như hai câu kết thấm ướt nước mắt nóng hổi xót thương!

Bằng tài năng kiệt xuất, Nguyễn Khuyến đã để lại cho hậu thế một bài thơ khóc bạn chan chứa nước mắt, qua những lời diễn đạt chân tình thống thiết.

Phân tích bài “Khóc Dương khuê” của Nguyễn Khuyến – Bài làm 4

Nguyễn khuyến là một tác gia lớn trong nền văn học Việt Nam, ông để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ với những giá trị rất lớn và nhiều ý nghĩa. Ngoài những bài thơ mang những hình ảnh thân thuộc của làng cảnh Việt Nam, những bài thơ trào phúng cười thâm thúy, sâu cay Nguyễn Khuyến còn là một nhà thơ của tình bạn, tình làng trên xóm dưới. Tiêu biểu trong đó có bài thơ Khóc dương khuê mang đạm tình cảm của nhà thơ dành cho bạn của mình.

Bài thơ có nhan đề Khóc dương Khuê thể hiện sự khóc bạn của nhà thơ Nguyễn Khuyến. đó là những tiếng khóc thương tiếc của nhà thơ dành cho người bạn của mình, là sự tiếc nuối những gì đã có với nhau để giờ đây bạn vội đi để lại một mình nhà thơ với những kỉ niệm vơi đầy của quá khứ. Đúng là người chết đi thì bình yên nhưng để lại sự thương tiếc cho người còn sống. Bài thơ hay chính là lời tiễn biệt của nhà thơ dành cho bạn mình.

Trước hết là hai câu thơ đầu tiên nói về tâm trạng của nhà thơ khi nghe tin bạn của mình qua đời:

“Bác Dương thôi đã thôi rồi, 

Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta. ”

Đó là tâm trạng buồn thương đầy nuối tiếc của nhà thơ. Cụm từ “ thôi đã thôi rồi” thể hiện sự nói giảm nói tránh của nhà thơ để làm giảm đi sự thật đau lòng kia. Bác Dương giờ đây đã không còn nữa, nhà thơ buồn thương khi nghe tin ông qua đời, tuổi già xế bóng cái chết luôn cận kề, hay chính là người ta đã đi tới dốc của bên kia cuộc đời. Những người bạn già càng thêm quý hơn những giây phút ở bên nhau, những buồn vui tuổi già còn gì quý hơn con cháu và bạn bè nữa, nhất là những nhà nho thời xưa. Thế nhưng người bạn của nhà thơ đã không một lời tiễn biệt cứ thế cất bước ra đi. Nhà thơ biết tin chứ không hề chứng kiến. Nỗi buồn thương vô hạn cho người đã  mất được Nguyễn Khuyến diễn tả “ man mác” “ ngậm ngùi”. Đó không phải là sự thương tiếc đau đớn dằn vặt, không phải quằn quại không chấp nhận thực tại mà là một nỗi buồn man mác. Có lẽ ta cảm nhận được cái thở dài ngao ngán của nhà thơ. Phải chăng cái tuổi già ấy đã làm cho nhà thơ biết chấp nhận được thực tại. Nỗi ngậm ngùi thương tiếc được đẩy vào bên trong. 

Tiếp đến những câu thơ sau tác giả lần lượt nhắc lại những kỉ niệm của mình với người đã khuất. Khoảng thời gian gắn bó của nhà thơ với bác Dương thật sự không phải ngắn ngủi. có thể nói hai người như tri kỉ của nhau vậy, họ cùng nhau từ khi còn là một chàng thanh niên đến khi ra làm quan rồi về đến cả tuổi già. Đó là một tình bạn lâu dài và bền vững mà không có gì có thể ngăn cản được họ.

Trước tiên là những kỉ niệm của nhà thơ về một thời trai trẻ cùng với bác Dương, đó là một thời vàng son oanh liệt, một thời sung sức tràn đầy, thời của tuổi trẻ tung tăng tự do và đầy hoài bão:

“Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước, 

Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau;

Kính yêu từ trước đến sau, 

Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời?

Cũng có lúc chơi nơi dặm khách, 

Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo;

Có khi tầng gác cheo leo, 

Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang;

Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp, 

Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân, 

Có khi bàn soạn câu văn, 

Biết bao đông bích, điển phần trước sau”

Tác giả nhớ về những ngáy tháng cùng nhau ôn luyện khoa thi cử. Đó là một thời vui vẻ nhất trong cuộc đời con người nói chung và cuộc đời của nhà thơ và người bạn mình nói riêng. Thuở ấy nhà thơ cùng Dương Khuê vẫn sớm tối cùng nhau, đi đâu cũng đi cùng nhau “ sớm hôm tôi bác có nhau”. Cả hai đều quý trọng yêu mến lẫn nhau, họ quý trọng tình bạn mà họ đang có. Nhà thơ kheo đặt một câu hỏi cho chính bản thân mình cũng như người đã mất. liệu rằng tình bạn ấy có phải là do duyên trời đã định không. Câu hỏi ấy không có câu trả lời vì tác giả biết, người đã mất biết, bạn đọc cũng biết được câu trả lời ấy. Nói về duyên phận cốt chỉ là để nêu cao những tình cảm bằng hữu tri kỉ của hai người họ mà thôi. Không những thế họ còn rủ nhau đi chơi khắp nơi đây cùng đó. Họ trải qua những ngày tháng thật tuyệt vời bên nhau. Họ vui vày cùng thiên nhiên cây cỏ, họ lắng nghe tiếng suối đang reo róc rách ngoài xa trên lưng đèo nọ. Tiếp nữa là những tầng gác cheo leo và hiểm trở. Họ vui đùa cùng nhau như thế suốt quãng thời gian niên thiếu của mình. Đi ngao du chơi bời khắp nơi rồi lại quay về nghe hát ả đào, rồi cùng nâng chén rượu cạn với nhau cho thỏa tình huynh đệ anh em. Những chén rượu ấm nóng đong đầy như tình cảm của hai người vậy. Cả đến khi họ học hành soạn câu văn hứng câu thơ họ cũng cùng nhau làm. Người ra vế đối người lại điền câu, họ như thi tài văn với nhau cũng như đang hưởng những gì đẹp nhất của những người học hành thi cử. 

Tiếp nữa nhà thơ hồi tưởng về những kỉ niệm khi họ cùng làm quan trong triều. đó là một kỉ niệm gian nan cũng có nhau và niềm vui thì cũng nhân đôi lên gấp bội:

“Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn, 

Phận đấu thăng chẳng dám tham trời”

Làm quan mà tài giỏi thì lắm chuyện thị phi, nhiều người hãm hại ghen ghét, không thế thì cũng rất nhiều điều sơ suất có thể mất đầu như chơi. Khi ấy họ thường chia sẻ cùng nhau quan tâm nhau giúp đỡ nhau vượt qua những khó khăn gian nan mà họ phải gánh chịu. đó là một tình bạn đẹp tuyệt vời, một tình bạn rất đỗi thiêng liêng và đáng trân trọng hơn bất cứ thứ gì như vàng bạc châu báu hay chức quan trong triều. Một người bạn tốt là luôn bên ta dù cho có sung sướng hay khó khăn. Và Nguyễn Khuyến và bác Dương là một đôi tri kỉ như thế. 

Trai trẻ rồi làm quan, làm quan rồi thì cũng sẽ già, mỗi mùa xuân đến cái tuổi nó lại mất đi mà như Xuân Diệu đã thật đúng khi nói rằng “  nhưng tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”. Xuân đến rồi xuân đi, xuân vẫn non rồi cũng sẽ già và con người cũng vậy có thời trai trẻ thì trải qua những mùa xuân họ đã bước đến tuổi già. Nhà thơ tiếp tục nhắc lại những kỉ niệm cùng bạn về cái tuổi xế bóng ngả chiều:

“Bác già, tôi cũng già rồi, 

Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là!

Muốn đi lại tuổi già thêm nhác, 

Trước ba năm gặp bác một lần;

Cầm tay hỏi hết xa gần, 

Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can, ”

Tuổi già làm cho người ta trở nên lười nhác và khó vận động hơn, chính vì thế ba năm gặp lại người bạn tri âm tri kỉ của mình nhà thơ vui mừng khôn xiết. Cả hai đều khôn xiết cầm tay hỏi gân hỏi xa. Hỏi nhau về sức khỏe thế nào, hỏi nhau về sinh hoạt hằng ngày. Họ cứ vui mừng khôn xiết, cứ mừng mừng tủi tủi vì bao lâu mới gặp lại nhau. 

Xem thêm:  Cảm nhận của em về bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”

Trước những kỉ niệm ấy nhà thơ càng thêm buồn trước thực tại phũ phàng, thực tại đó làm cho người ta thấy thương thấy nhớ, thấy tất cả những kỉ niệm qua đi làm người ta nhớ đến người đã mất nhiều hơn:

Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác, 

Tôi lại đau trước bác mấy ngày;

Làm sao bác vội về ngay, 

Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời. 

Ai chẳng biết chán đời là phải, 

Vội vàng sao đã mải lên tiên;

Rượu ngon không có bạn hiền, 

Không mua không phải không tiền không mua. 

Câu thơ nghĩ đắn đo không viết, 

Viết đưa ai, ai biết mà đưa;

Giường kia treo những hững hờ

Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn

Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở, 

Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương;

Tuổi già hạt lệ như sương, 

Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!”

Nhà thơ buồn bã kể tuổi mình còn nhiều hơn tuổi của Dương Khuê mà giờ đây lại là người chịu nổi đau mất bạn, đáng lẽ ra nhà thơ phải là người đi trước thế nhưng cuộc đời thường trái ngược như thế. Nhà thơ khẽ trách sao bác vội đi ngay làm cho nhà thơ phải đau đến mấy ngày và nhớ thương mãi mãi. Khi nghe tin bác Dương mất đi nhà thơ như dụng rời chân tay. Người mất đi để lại biết bao nhiêu niềm thương tiếc, để giờ đây một mình nhà thơ với rượu ngon không có ai uống cùng. Câu thơ định viết mà còn ngập ngừng vì không có ai hiểu thơ ông như bác Dương cả. điệp từ không như khẳng định, nhấn thêm vào nỗi trống vắng của nhà thơ khi mất đi người bạn thân yêu. Giường kia cũng treo hững hờ để đấy, tiếng đàn kia ngẩn ngơ buồn thiu. Thế rồi tác giả buồn thương nhưng ví tuổi già như hạt sương tan đi nhanh chóng không biết lúc nào vì vậy “ hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan”.

Tuổi già dễ tan vỡ như giọt sương kia, nắng lên hay chính là ông trời cho sống đến ngày nào thì hay được ngày ấy. 

Như vậy có thể thấy được nỗi xót thương vô hạn của nhà thơ dành cho bạn của mình. Tuổi già tròi cho sống ngày nào hay ngày ấy, biết vậy nhưng tác giả không thôi thương tiếc cũng như bủn rủn chân tay khi nghe tin người tri âm tri kỉ của mình ra đi đột ngột như thế. Bằng những câu thơ hay tự do , nhịp điệu dặt dìu như chính là nỗi lòng tâm sự của tác giả. Từng câu từng chữ như bật lên thể hiện những tiếng khóc ngậm ngùi của nhà thơ dành cho bạn mình. Thế đấy bạn bè là khi còn sống hay đã chết, nghèo đói hay giàu sang, sướng vui hay khổ nhục đều nhớ về nhau, chia sẻ cho nhau những điều bắt gặp trong cuộc đời. Nguyễn Khuyến thật có hạnh phúc khi có một tình bạn như thế, bài thơ như là lời tiễn biệt nhớ thương của nhà thơ dành cho người đã mất. đồng thời đó cũng giống như lời khóc thương mà nhà thơ cố gắng gửi từ cõi trần đến thế giới bên kia.

Phân tích bài “Khóc Dương khuê” của Nguyễn Khuyến – Bài làm 5

Nguyễn Khuyến là hình mẫu nhà nho chân chính ở giai đoạn cuối cùng của nền Hán học. Theo đuổi nghiệp khoa cử, ra làm quan rồi cáo quan về ở ẩn, cuộc đời lận đận của ông là sự cố gắng giữ mình thanh sạch. Giai đoạn cuối đời là giai đoạn ông mang nhiều tâm sự nhất. Tâm sự của nhà thơ lúc này thường phảng phất sự cô đơn, u ẩn. Bao nỗi niềm chất chứa trong lòng. Và khi nghe tin Dương Khuê – người bạntri âm một thời đã ra đi, cảm giác cô đơn chắc chắn lại dâng đầy trong lòng nhà thơ. Và lời khóc bạn cũnglà lời tâm sự thời thế của người còn lại.

Nguyễn Khuyến và Dương Khuê là hai người bạn thân khi cùng nhau theo đuổi nghiệp khoa cử, họ cũng từng tâm đầu ý hợp trong chuyện văn chương. Nhưng với hai quan điểm khác nhau. Nguyễn Khuyến sau gần mười năm làm quan đã cáo quan về quê sống cuộc đời thuần chất của một nhà thơ để giữ mình trong sạch trước xã hội đang vô cùng lộn xộn. Còn Dương Khuê thì tiếp tục làm quan nhưng vẫn là một ông quan thanh liêm chính trực. Vì thế, họ không có nhiều thời gian để đàm đạo. Tuy vậy, họ vẫn là những tri âm tri kỉ. Với các nhà nho xưa, tình bạn tri âm nhiều khi còn quan trọng hơn cả tình cảm gia đình. Họ cùng nhau đàm đạo chuyện văn chương, sẻ chia tâm sự thời thế, chia ngọt sẻ bùi lúc hạnh phúc cũng như khi hoạn nạn. Đã có những tình bạn đẹp trở thành những điển cố điển tích như tình bạn Bá Nha – Tử Kì, Trần Phồn – Từ Trĩ, Lưu Bình – Dương Lễ… Và Nguyễn Khuyến cũng đã coi tình bạn giữa mình với Dương Khuê là tình bạn tri âm như thế.Sự ra đi đột ngột của người tri âm đã để lại trong lòng nhà thơ nỗi đau đớn khôn xiết :

Bác Dương thôi đã thôi rồi,

Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.

Tiếng khóc của người bạn già nên có âm điệu và sắc thái tình cảm riêng. Đó là nỗi đau lớn nhưng được thể hiện rất điềm đạm. “Thôi đã thôi rồi”, “man mác”, “ngậm ngùi” là những từ ngữ biểu cảm có khả năng chuyển tải được cung bậc tình cảm ấy.

Sau phút giây bàng hoàng là hồi ức về những kỉ niệm xưa giữa hai người. Sự phát triển của mạch cảm xúc theo đúng quy luật tâm lí thông thường của con người. Lời khóc và cũng là lời viếng bạn, là bài điếu văn của người tri kỉ gửi người tri âm. Những kỉ niệm gắn bó khi hai người cùng học hành, thi cử, bàn luận văn chương và cả những ngày cùng chung hoạn nạn của cuộc sống quan trường đầy phức tạp. Người khác đã tổng kết lại chặng đường đời mà cả hai đã trải qua đểkhắc sâu hơn sự gắn bó của họ trong quá khứ :

Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước

Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau

…..Cầm tay hỏi hết xa gần,

Mừng rằng bác hãy tinh thần chưa can.

Họ gắn bó với nhau trong mọi việc. Kỉ niệm được nhắc lại bắt đầu từ khi họ gặp nhau và cho đó là “duyên trời”. Đã là duyên trời có nghĩa là tiền định. Sự gặp gỡ của họ không phải là vô tình mà đã được sắp đặt từ trước. Thông thường chỉ duyên vợ chồng mới do trời định. Cách diễn đạt này của tác giả đã khẳng định một lần nữa tình bạn sâu sắc của hai người. Họ đã cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, cùng “chơi nơi dặm khách”, “rượu ngon cùng nhắp”, cùng “bàn soạn câu văn”. Không chỉ có những kỉ niệm ngọt ngào, họ cũng đều cùng là nạn nhân của thời thế :

Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn,

Phận đẩu thăng chẳng dám than trời ;

Trong hồi ức thấp thoáng nỗi đau thời thế. Nhớ lại kỉ niệm của những ngày cùng nhau gắn bó, nhớ lại lần gặp gỡ cuối cùng khi cả hai đã già nhưng vẫn giữ được mình trong sạch, người ở lại càng đau đớn hơn. Nỗi đau ấy được thể hiện thật xúc động và chân thật :

Làm sao bác vội về ngay,

Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời.

Sau những hồi ức về những ngày đã qua, người bạn cảm nhận rõ hơn, cụ thể hơn nỗi đau mất bạn. Không phải chỉ là thương cho người ra đi đã phải sớm từ giã cuộc đời mà còn là thương mình, thương cho người ở lại đã mất đi một tri âm. Vẫn mang trong lòng nỗi u uất thời thế nên trong lời khóc bạn, trong nỗi đau mất tri kỉ có cả nỗi đau thời thế :

Ai chẳng biết chán đời là phải,

Sao vội vàng đã mải lên tiên.

Giữa họ, trong những ngày không gặp nhau khi mỗi người đi một con đường, vẫn chung nỗi đau thế sự. Xác nhận “chán đời là phải” là sự thể hiện một cách kín đáo và thâm trầm của nhà nho về thời thế. Thời thế hỗn loạn, những giá trị đạo đức, văn hoá truyền thống đang bị phá huỷ đã khiến những nhà nho có nhân cách và biết tự trọng như Nguyễn Khuyến luôn cảm thấy “chán đời”. Trong tiếng khóc bạn phảng phất cả lời khóc mình.Tình bạn keo sơn và nỗi lòng của người tri âm, nỗi đau mất bạn được thể hiện rõ và sâu sắc nhất ở đoạn thơ cuối cùng :

Rượu ngon không có bạn hiền,

Không mua không phải không tiền không mua.…

Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn.

Dùng một loạt điển tích, điển cố về tình bạn tri âm, nhà thơ đã thể hiện và khẳng định một lần nữa tình bạn thân thiết của hai người. Từ đó bộc lộ nỗi đau mất bạn. Mất đi người tri âm, người ở lại sẽ rơi vào cô đơn, sẽ không còn người để giãi bày tâm sự. Mà trong lòng nhà thơ lúc ấy đang chất chứa bao nhiêu tâm sự cần người sẻ chia. Nỗi đau của một người già khi mất bạn, sự sâu sắc của tình bạn già được thể hiện rõhơn ở bốn câu thơ kết thúc :

Bác chẳng ở, dẫu van chẳng ở,

Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương ;

Tuổi già hạt lệ như sương,

Hơi đâu chuốc lấy hai hàng chứa chan !

Lời khóc bạn của người già khác với nỗi đau của người trẻ tuổi. Đây là nỗi đau nuốt nước mắt vào trong. Tình cảm chân thành của một người bạn già đã được thể hiện thật chân thành và sâu sắc.Với những từ ngữ mộc mạc, chân chất và thể thơ song thất lục bát, tác giả đã thể hiện thật xúc động nỗi đau trước sự ra đi của một người bạn. Sự thay đổi nhịp thơ ở đoạn 2 và đoạn 3 đã góp phần thể hiện rõ hơn tâm trạng của nhân vật trữ tình. ở đoạn 2, âm điệu thơ vui hơn, dồn hơn bởi đó là lúc nhân vật trữ tình đắm mình trong kỉ niệm, trong những hồi ức đẹp khi họ còn có cả hai người. Còn ở đoạn sau, khi chỉ còn lại một mình, trong nỗi cô đơn không người chia sẻ, người bạn ở lại đau đớn và cô độc trong sự nuối tiếc. Sự đối lập ở hai đoạn thơ đã khắc sâu hơn nỗi đau của người mất bạn tri âm.

Thể thơ song thất lục bát với nhịp điệu đặc trưng đã truyền tải chính xác những cảm xúc chân thành của lời khóc bạn. Trong lòng vốn đã mang đầy tâm sự của một nhà nho trước thời thế bao chuyện đảo lộn xoay vần lại cộng thêm nỗi đau trước sự ra đi đột ngột của người bạn thân, nhà thơ đã rơi vào tâm trạng tột cùng đau đớn. Nhưng với một người từng trải và đã trải qua bao nhiêu đắng cay của một cuộc đời lận đận, nhà nho đầy bản lĩnh như Nguyễn Khuyến đã không than thân trách phận, không vật vã than khóc mà thâm trầm và lặng lẽ thể hiện nỗi đau của mình một cách điềm đạm. Bản lĩnh ấy đã tạo cho văn học một thi phẩm có giá trị nhân văn lớn.

Bài thơ đã thể hiện được một tình bạn đẹp, góp phần khẳng định giátrị và vai trò quan trọng của tình cảm giữa con người với con người trong cuộc sống. Sự sẻ chia niềm vui và nỗi buồn giữa những người bạn, những người thân là yếu tố quan trọng nhất để mỗi người đứng vững giữa cuộc đời đầy rẫy bất trắc và bộn bề phức tạp.Tình bạn giữa Nguyễn Khuyến và Dương Khuê, hai nhà nho có tài và có nhân cách đã để lại cho đời một biểu tượng cao đẹp về tình bạn. Khóc Dương Khuê không chỉ thể hiện tấm lòng sâu sắc và tình cảm tha thiết của một người bạn với một người bạn, bài thơ còn là một biểu hiện xúc động cho vẻ đẹp nhân cách của một nhà nho chân chính. Những tâm sự, nỗi đau thời thế ẩn sau nỗi đau mất bạn đã tạo nên chiều sâu nhân bản cho bài thơ.

Bài liên quan

Tìm hiểu về bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Tìm hiểu về bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm – Bài làm 1 Loading……
So sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều

So sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều

So sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều trong đoạn trích Chị em…
Phân tích tâm trạng nhân vật trữ tình trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu

Phân tích tâm trạng nhân vật trữ tình trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu

Phân tích tâm trạng nhân vật trữ tình trong bài thơ Vội vàng của Xuân…
Phân tích hai khổ thơ cuối bài Tràng Giang của Huy Cận

Phân tích hai khổ thơ cuối bài Tràng Giang của Huy Cận

Phân tích hai khổ thơ cuối bài Tràng Giang của Huy Cận – Bài làm…

Bình luận

Địa chỉ email của bạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *