Đề bài: Phân tích bản tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh.
Bài làm
Sự nghiệp văn học của Chủ tịch Hồ Chí Minh rất phong phú, đa dạng, gồm nhiều thể loại khác nhau. Tuyên ngôn Độc lập thuộc thể văn chính luận – một tác phẩm chính luận mẫu mực.
Muốn hiểu và đánh giá đúng mọi bài văn, bài thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết phải nắm vững quan điểm sáng tác của Người. Điều này, nhiều người phân tích tác phẩm của Bác chưa chú ý đúng mức.
Để những bài viết của mình đạt hiệu quả chính trị cao nhất, khi cầm bút, bao giờ Hồ Chí Minh cũng tự đặt cho mình câu hỏi: Viết cho ai ? Viết vì mục đích gì ? Sau đó mới quyết định viết cái gì (nội dung) và cách viết thế nào (hình thức). Như thế nghĩa là viộc xác định đối tượng tác động, thuyết phục và mục đích chính trị của văn bản là vấn đề then chốt. Không nắm vững điều đó, không thể hiểu được chính xác và đầy đú bất cứ tác phẩm nào của Người từ nội dung đến hình thức nghệ thuật.
Nắm được quan điểm sáng tác của Hồ Chí Minh chưa đủ, còn cần phải hiểu đặc điểm về mặt thể loại của mỗi tác phẩm của Người nữa. Văn chính luận hay văn thẩm mĩ, thơ tuyên truyền hay thơ nghệ thuật, không phân biệt được điều đó, sự đánh giá không tránh khỏi hồ đồ. Ngoài ra còn phải biết được pỉiong cách viết của Người nữa. Nét nổi bật của phong cách văn xuôi Hồ Chí Minh là giản dị, trong sáng, ngắn gọn, súc tích.
Chúng ta hãy vận dụng những hiểu biết nói trên vào việc phân tích bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tuyên ngôn Độc lập là bài văn chính luận. Văn chính luận thuyết phục người đọc bằng những lí lẽ. Nếu đánh địch thì cũng đánh địch bằng những lí lẽ. Lợi khí của nó là những lí lẽ đanh thép, những lập luận chặt chẽ, những bàng chứng không ai chối cãi được. Văn chính luận nếu có dùng đến hình ảnh, có gợi đến tình cảm thì chẳng qua cũng chỉ để phụ giúp thêm cho sự thuyết phục bằng lí lẽ mà thôi. Chúng ta sẽ nói đến cái hay, cái tài của Tuyên ngôn Độc lập theo quan niệm đó.
Bản Tuyên ngôn Độc lập viết cho ai ? Câu hỏi đặt ra có vẻ thừa. Bởi vì lời giải đáp đã có sẵn trong văn bản:
“Hỡi đổng bào cả nước […] chúng tôi trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng”.
Như vậy là Bác Hồ viết cho đồng bào cả nước và nhân dân thế giới chứ còn cho ai nữa ?
Còn viết để làm gì ? Thì viết để “Tuyên ngôn Độc lập” chứ còn mục đích nào khác?
Thực ra vấn đề không hẳn chỉ có thế. Nếu chỉ viết cho đồng bào và nhân dân thế giới chung chung thì chắc Người không cần dùng đến nhiều lí lẽ như vậy, và chưa hẳn đã cần phải mở đầu bằng những câu trích trong hai bản Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp từ thế kỉ XVIII.
Vậy đối tượng và mục đích văn kiện lịch sử này phải được tìm hiểu cặn kẽ hơn nữa. Cần thấy rằng khi Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn thì ở phía Nam, thực dân Pháp núp sau lưng quân đội Anh (thay mặt Đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật) đang tiến vào Đông Dương ; còn ở phía Bắc thì bọn Tàu Tưởng, tay sai của đế quốc Mĩ, đã chực sẳn ở biên giới. Người viết bản Tuyên ngôn cũng thừa hiểu rằng “mâu thuẫn giữa Anh – Pháp – Mĩ và Liên Xô có thể làm cho Anh – Mĩ nhân nhượng với Pháp và để cho Pháp trở lại Đông Dương”. Và tên thực dân này, để chuẩn bị cho cuộc xâm lược thứ hai của mình, đã tung ra dư luận quốc tế những lí lẽ “hùng hồn” của bọn ăn cướp : Đông Dương vốn là thuộc địa của Pháp, Pháp có công khai hoá đất nước này, nay trở lại là lẽ đương nhiên, khi phát xít Nhật đã bị Đồng minh đánh bại.
Như vậy là bản Tuyên ngôn Độc lập không chỉ đọc trước đồng bào và một thế giới trừu tượng, cũng không phải chỉ để tuyên bố độc lập một cách đơn giản. Đối tượng “thế giới” ở đây, trước hết là bọn đế quốc Mĩ, Anh, Pháp và sự khẳng định quyền tự do, độc lập của dân tộc đồng thời là một cuộc tranh luận nhằm bác bỏ lí lẽ của bọn xâm lược trước dư luận thế giới.
Trong tranh luận, để bác bỏ luận điệu của một đối thủ nào đấy, không gì thú vị và đích đáng hơn là dùng chính lí lẽ của đối thủ ấy. Người ta gọi thế là “lấy gậy ông đập lưng ông”.
Bác Hồ đã khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc ta bằng chính những lời lẽ của tổ tiên người Mĩ, người Pháp đã ghi trong hai bản Tuyên ngôn Độc lập và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền làm vẻ vang cho truyền thống tư tưởng và văn hoá của những dân tộc ấy. Cách nói, cách viết như thế là “khéo léo và kiên quyết” . Khéo léo, vì tỏ ra rất trân trọng những danh ngôn bất hủ của người Pháp, người Mĩ. Kiên quyết vì nhắc nhở họ đừng phản bội tổ tiên mình, đừng có làm vấy bùn lốn lá cờ nhân đạo của những cuộc cách mạng vĩ đại của nước Pháp, nước Mĩ, nếu nhất định tiến quân xâm lược Việt Nam.
Ngoài ra, mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam mà nhắc đến hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng trong lịch sử nhân loại của hai nước lớn như thế, thì cũng có nghĩa là đã đặt ba cuộc cách mạng ngang hàng nhau, ba bản Tuyên ngôn ngang hàng nhau. Một cách kín đáo hơn, bản Tuyên ngôn của Hồ Chí Minh dường như muốn gợi lại niềm tự hào của Nguyễn Trãi trong bài Bình Ngô đại cáo ngày xưa, khi mở đầu tác phẩm bằng hai vế cân xứng như để đặt ngang hàng triều Đinh, Lê, Lí, Trần của Nam quốc với Hán, Đường, Tống, Nguyên của Bắc quốc.
Mà đăng đối, cân xứng cũng phải, vì cuộc Cách mạng tháng Tám 1945, thực ra đã giải quyết đúng những nhiệm vụ của hai cuộc cách mạng của Mĩ (1776) và của Pháp (1789). Bản Tuyên ngôn đã nêu rõ : “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập”. Đó cũng là yêu cầu đặt ra cho cuộc cách mạng nước Mĩ : Đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa Bắc Mĩ ra khỏi ách thực dân Anh. Bản Tuyên ngôn cũng viết : “Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hoà”. Đấy cũng chính là tinh thần cơ bản của cuộc cách mạng nhân quyền, dân quyền của Pháp thế kỉ XVIII.
Nhưng để đối thoại với bọn đế quốc xâm lược, lúc bấy giờ vấn đề hàng đầu đặt ra là độc lập dân tộc. Điều đó giải thích vì sao bản Tuyên ngôn Độc lập đã mở đầu như thế :
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được ; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mĩ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là : tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Ý kiến “suy rộng ra” ấy quả là một đóng góp đầy ý nghĩa của Hồ Chí Minh đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Một nhà văn hoá nước ngoài đã viết: “Cống hiến nổi tiếng của Cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát triển quyền lợi của con người thành quyển lợi của dân tộc. Như vậy tất cả mọi dân tộc đều có quyên tự quyết định lấy vận mộnh của mình”. Vậy có thể xem cái luận điểm “suy rộng ra” kia là phát súng lệnh khởi đầu cho bão táp cách mạng ở các thuộc địa sẽ làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân trên khắp thế giới vào nửa sau thế kỉ XX ?
Nhưng kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất đe doạ nén độc lập của dân tộc khi bản Tuyên ngôn ra đời là bọn xâm lược Pháp. Đẩy lùi nguy cơ ấy sẽ phải là cuộc chiến đấu vũ trang lâu dài của toàn dân. Nhưng cuộc chiến đấu ấy rất cần đến sự đồng tình và ủng hộ của nhân loại tiến bộ. Muốn vậy, phải xác lập cơ sở pháp lí của cuộc kháng chiến, phải nêu cao chính nghĩa của ta và đập tan những luận điệu xảo trá của bọn thực dân muốn “hợp pháp hoá” cuộc xâm lược của chúng trước dư luận quốc tế.
Bản Tuyên ngôn đã giải quyết được yêu cầu ấy bằng một hệ thống lập luận hết sức chặt chẽ và đanh thép.
Thực dân Pháp muốn khoe khoang công lao khai hoá của chúng đối với Đông Dương ư ? Thì bản Tuyên ngôn đã vạch trần những hành động “trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa” của chúng trong tám mươi năm thống trị nước ta : Thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ, chia rẽ ba kì, tắm máu các phong trào yêu nước và cách mạng, thi hành chính sách ngu dân ; đầu độc bằng thuốc phiện, rượu cồn, bóc lột, vơ vét đến tận xương tuỷ, cuối cùng, gây ra nạn đói khiến “từ Quảng Trị dến Bắc Kì hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói”.
Thực dân Pháp muốn kể công “bảo hộ” Đông Dương ư ? Thì bản Tuyên ngôn chỉ rõ đó không phải là công mà là tội, vì “trong 5 năm, chúng đã bán nước ta hai
lần cho Nhật”.
Thực dân Pháp tuyên bố Đông Dương là thuộc địa của chúng nên chúng có quyền trở lại Đông Dương ư ? Nhưng Đông Dương có còn là thuộc địa của thực dân Pháp nữa đâu ? Bản Tuyên ngôn vạch rõ : “Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa.
Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp”. Luận điểm này, dứng vể ý nghĩa pháp lí, cực kì quan trọng. Nó sẽ dẫn tới lời tuyên bố tiếp theo của bản Tuyên ngôn : “Bởi thế cho nên, chúng tôi, Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát li hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về nước Việt Nam, xoá bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Viột Nam”. Sức mạnh của chính nghĩa bao giờ cũng đồng thời là sức mạnh của sự thật. Vì thế, Người viết Tuyên ngôn luôn luôn láy đi láy lại hai chữ “sự thật” : “sự thật là…”, “sự thật là…”. Và cuối cùng thì “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập”,… Đấy là những điệp khúc nối tiếp nhau tãng thêm âm hưởng hùng biện của bản Tuyên ngôn.
Đấy là hệ thống lí lẽ bác bỏ luận điệu của bọn đế quốc, thực dân.
Còn đối với dân tộc Việt Nam ? Dân tộc ta có xứng đáng được hưởng độc lập, tự do hay không ? Có đủ tư cách làm chủ đất nước mình hay không ? Bản Tuyên ngôn đã đưa ra những lí lẽ, không phải để bác bỏ mà để khẳng định :
-Nếu thực dân Pháp có tội phản bội Đồng minh, hai lần bán rẻ Đông Dương cho Nhật, thì dân tộc Việt Nam đại diện là Việt Minh, đã đứng lên chống Nhật cứu nước và cuối cùng giành được chủ quyền từ tay phát xít Nhật.
-Nếu thực dân Pháp bộc lộ tính chất đê hèn, tàn bạo và phản động của chúng ở hành động “thẳng tay khủng bố Việt Minh”, “thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng” thì nhân dân ta vẫn giữ thái độ khoan hồng và nhân đạo đối với kẻ thù đã thất thế : “Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thuỳ, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ”.
-Một dân tộc phải chịu biết bao đau khổ dưới ách thực dân tàn bạo, đã anh dũng chiến đấu cho độc lập tự do, đã đứng hẳn về phe Đồng minh chống phát xít, đã nêu cao tinh thần nhân đạo, bác ái như thế, “dân tộc đó phải được tự do ! Dân tộc đó phải được độc lập !”.
Tinh thần khẳng định, trong lời kết luận, còn được tăng cấp lên một bậc nữa : Hưởng độc lập, tự do không phải chỉ là một cái quyền phải có, không phải chỉ là một tư cách cần có, mà đó là một hiên thực : “Nước Việt Nam có quyền
hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập”. Và vì thế “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Người ta gọi bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là “thiên cổ hùng văn”. Cũng có thể nói như thế về bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tất nhiên bản Tuyên ngôn không còn ra đời trong thời kì vãn học nguyên hợp, vãn sử bất phân nữa để đưa vào bài chính luận của mình những hình tượng hào hùng, tầng tầng lớp lớp như bài cáo của người xưa. Ngày nay, văn chính luận là văn chính luận. Tài nghệ ở đây là dàn dựng được một lập luận chặt chẽ, đưa ra được những luận điểm, những bằng chứng không ai chối cãi được. Và đằng sau những lí lẽ ấy là một tầm tư tưởng, tầm văn hoá lớn, đã tổng kết được trong một văn bản ngắn gọn, trong sáng, khúc chiết, kinh nghiệm của nhiều thế kỉ đấu tranh vì độc lập, tự do, vì nhân quyền của dân tộc và nhân loại.
Chính Hồ Chí Minh tự đánh giá đây là thành công thứ ba khiến Người cảm “thấy sung sướng” trong cả cuộc đời viết văn, làm báo dày kinh nghiêm của mình.