Tuyển chọn đề thi Ngữ Văn kì thi THPT – Đề số 14
Hướng dẫn
Tuyển chọn đề thi THPT Ngữ Văn (Đề 14)
A. ĐỀ THI
I. ĐỌC HIỂU (3 ĐIỂM)
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:
Anh bạn thân yêu! Giờ đây tôi đang ở trên thiên đàng – một thế giới diệu kì mà lung linh biết mấy. Nơi này chẳng có ngày hay đêm. Mặt trời, vầng trăng và cả những vì sao lấp lánh cùng nhau tỏa sáng, không gian lúc nào cũng trong veo như pha lê. Mẹ và anh trai tôi đang mỉm cười cùng những linh hồn khác. Chúng tôi không có quốc gia, không phải di cự, không phán biệt tôn giáo, không có khủng bố hay bạo lực… Tất cả đều như nhau – những linh hồn bay nhẹ nhõm thanh thản và yên bình.
Giờ đang là giao thừa. Từ trên đây, chúng tôi có thể ngắm nhìn cả trái đất. Ngắm nhìn những chùm pháo hoa lộng lẫy bung nở trong màn đêm và lắng nghe tiếng chuông ngân vang. Dưới đó là những mảng màu tương phản. Có những nơi rực rỡ trong ánh sáng, lại có những mảng tối im lìm đâu đó. Tiếng chuông lẫn trong tiếng súng, hạnh phúc ở cùng với bất hạnh, thù hận đi liền với tình yêu… Chao ôi, cuộc sống nơi trần thế! Giờ thì tất cả đã xa vời.
(Trích bức thư đoạt giải Nhất, Cuộc thi viết thư Quốc tế UPU lần thứ 45)
Câu 1. Xác định phong cách ngôn ngữ của văn bản trên. (0,5 điểm)
Câu 2. Phân tích hiệu quả của biện pháp nghệ thuật trong đoạn văn sau:“Có những nơi rực rỡ trong ánh sáng, lại có những mảng tối im lìm đâu đó. Tiếng chuông lẫn trong tiếng súng, hạnh phúc ở cùng với bất hạnh, thù hận đi liền với tình yêu… ”(1 điểm)
Câu 3. Xác định phường thức biểu đạt chính. (0,5 điểm)
Câu 4. Qua việc dựng lên hai thế giới đối lập giữa trần gian và thiên đàng, tác giả bức thư muốn gửi gắm ước mơ gì? (1 điểm)
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1. (2 điểm)
Từ văn bản ở phân Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn khoảng 200 từ với nhan đề: Đấu tranh vì một thế giới hoà bình.
Câu 2. (5 điểm)
Cảm nhận của anh/chị về những nét tương đồng và khác biệt của hình tượng người chiến sĩ trong hai đoạn văn sau:
Việt vẫn còn đây, nguyên tại vị trí này, đạn đã lên nòng, ngón cái còn lại vẫn sẵn sàng nổ súng. Các anh chờ Việt một chút. Tiếng mảy bay vẫn gầm rú hỗn loạn trên cao, nhưng mặc xác chúng. Kèn xung phong của chúng ta đã nổ lên. Lựu đạn ta đang nổ rộ…
Việt đã bò đi được một đoạn, cây súng đẩy đi trước, hai cùi tay lôi người theo. Việt cũng không biết rằng mình bò đi nữa, chính trận đánh đang vẫy gọi Việt đến. Phía đó là sự sống. Tiếng súng đã đem lại sự sống cho đêm vắng lặng. Ở đó các anh đang chờ Việt, đạn ta đang đổ lên đẩu giặc Mĩ những đảm lửa dữ dội và những mũi lê nhọn hoắt đang bắt đâu xung phong…
(Trích Những đứa con trong gia đình, Nguyễn Thi)
Một ngón tay Tnú bốc chảy. Hai ngón, ba ngón. Không có gì đượm bằng nhựa xà nu. Lửa bắt rất nhanh. Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc.
Tnú nhắm mắt lại, rồi mở mắt ra, trừng trừng.
Trời ơi, cha mẹ ơi! Anh không cảm thấy lửa ở mười đẩu ngón tay nữa. Anh nghe lửa chảy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rổi. Anh không kêu lên. Anh Quỵết nói: “Người cộng sản không thèm kêu van”. Tnú không thèm, không thèm kêu van. Nhưng trời ơi! Chảy, cháy cả ruột đầy rồi! Anh Quyết ơi! Cháy! Không, Tnú sẽ không kêu! Không!”.
(Trích Rừng xà nu, Nguyễn Trung Thành)
B. HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỀ
I. ĐỌC HIỂU (3 ĐIỂM )
Câu 1. Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt. (0,5 điểm)
Câu 2.
“Có những nơi rực rỡ trong ánh sáng, lại có những mảng tối im lìm đâu đó. Tiếng chuông lẫn trong tiếng súng, hạnh phúc ở cùng với bất hạnh, thù hận đi liền với tình yêu..Đoạn văn trên sử dụng nghệ thuật đối lập giữa ánh sáng với mảng tối, tiếng chuông với tiếng súng, hạnh phúc với bất hạnh. Tác dụng của phép đối lập nhằm nhấn mạnh cuộc sống nơi trần gian thật phức tạp, đan xen tốt – xấu, thiện – ác, hạnh phúc và khổ đau, chiến tranh và hoà bình. Đồng thời làm tăng sức gợi hình biểu cảm gây ấn tượng cho người đọc. (1 điểm)
Câu 3. Phương thức biểu đạt chính: biểu cảm. (0,5 điểm)
Câu 4.
Qua việc dựng nên hai thế giới đối lập giữa thiên đường và trần thế, tác giả đã gửi gắm ước mơ về một thế giới hoà bình không có chiến tranh, không phân biệt tôn giáo hay khủng bố bạo lực. Ở thế giới đó, con người sẽ được sống yên bình tại nơi mình sinh ra, không phải di cư vì chiến tranh bạo loạn hay xung đột sắc tộc. Thiên đường theo mơ ước của tác giả – chú bé Syria ba tuổi chết trên đường tị nạn – đơn giản là nơi hoà bình, không có chiến tranh. (1 điểm)
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1. (2 điểm)
Yêu cầu về hình thức
– Viết đúng đoạn văn khoảng 200 từ.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung
Đoạn văn cần có các ý sau:
– Hoà bình là ước mơ của toàn nhân loại, có hoà bình sẽ có tất cả mọi điều tốt đẹp khác như giáo dục, vui chơi giải trí, tình yêu, lòng vị tha…
– Phê phán những hành động gây chiến tranh bạo loạn, đi ngược lại khát vọng hoà bình chung của loài người.
– Cần có biện pháp tuyên truyền đấu tranh vì một thế giới hoà bình.
Đoạn văn mẫu:
Trong lời một bài hát có đoạn “Em mong sớm đến năm 2000 và mong ước chiến tranh sẽ tàn, để trái đất chỉ còn tiếng hát”. Năm 2000 đã qua và nhân loại đang sống trong thế kỉ mới – thế kỉ 21, nhưng vẫn luôn phải tiếp tục đấu tranh vì một thế giới hoà bình, đấu tranh để ước mơ của mọi người thành hiện thực. Hoà bình – nghĩa là không còn chiến tranh – hai tiếng đơn giản mà thật khó thực hiện biết bao. Vậy mà hiện nay, trên thế giới vẫn còn hàng ngàn người đang phải sống trong cảnh chiến tranh, li tán. vẫn có những đứa trẻ ở Syria chết trên đường tị nạn. Những thường dân ở các nước Châu Phi vẫn ngày ngày phải hứng chịu bom đạn, đối mặt với thẩn Chết. Tại sao nhân loại không ngừng mơ ước khát khao vể một thế giới hoà bình, nhưng mặt khác chính con người lại sản xuất ra các yũ khí huỷ diệt hàng loạt để giết hại chính đồng loại của mình? Mỗi chúng ta hãy chung tay đấu tranh vì một thế giới hoà bình, không chỉ cho riêng ai mà cho toàn nhân loại, không chỉ cho hôm nay mà cả mai sau.
Câu 2. (5 điểm)
Yêu cầu về hình thức
– Viết đúng kết cấu bài văn gồm ba phần.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung
Bài cần đảm bảo các ý sau:
a) Mở bài
Giới thiệu tác giả, tác phẩm, hình tượng người chiến sĩ trong hai đoạn văn. (0,5 điểm)
– Giới thiệu Nguyễn Trung Thành, tác phẩm Rừng xà nu và hình tượng Tnú.
– Giới thiệu Nguyễn Thi, tác phẩm Những đứa con trong gia đình và hình tượng Việt.
b) Thân bài (4 điểm)
1. Phân tích đoạn văn thứ nhất: Cảnh Việt bị thương nằm lại nơi chiến trường
– Việt là một chiến sĩ giải phóng quân sinh ra và lớn lên trong gia đình có truyền thống cách mạng, mang mối thù sâu nặng với giặc Mĩ, anh xung phong tòng quân dù chưa đủ tuổi. Ở Việt luôn sôi nổi một tinh thần chiến đấu “trả thù cho ba má”. Trong trận đánh ở rừng cao su, Việt lập công lớn tiêu diệt được một xe bọc thép của địch nhưng cũng bị thương nặng và lạc đồng đội..
– Khi bị thương, Việt nhiều lần ngất đi tỉnh lại. Mỗi lần tỉnh lại, những hồi ức về ba má, chú Năm, chị Chiến, đồng đội lại hiện về trong tâm trí Việt. Qua đó, ta thấy Việt có một tâm hồn giàu tình cảm gắn bó với quê hương gia đình.
– Đoạn văn thể hiện phẩm chất nổi bật ở Việt là tinh thần ý chí quyết tâm chiến đấu kiên cường dũng cảm. Dù bị thương lạc đơn vị một mình nằm lại chiến trường, Việt vẫn không hề run sợ, vẫn ở tư thế sẵn sàng chiến đấu. Việt vẫn cố gắng bò về phía tiếng súng, phía đồng đội đang chiến đấu. Hình ảnh Việt gợi ta nhớ đến hình ảnh anh giải phóng quân trong bài thơ Dáng đứng Việt Nam của Lê Anh Xuân, dù bị trúng đạn nhưng vẫn gượng đứng lên nhằm thẳng quân thù mà bắn:
Anh ngã xuống trên đường băng Tân Sơn Nhất
Nhưng anh gượng đứng lên Tì tay trên báng súng Và anh ngắm bắn ……… Từ dáng đứng của anh Tổ Quốc bay lên bát ngát mùa xuân. |
2. Phân tích đoạn văn thứ hai: Cảnh Tnú bị giặc đốt cháy mười đầu ngón tay.
– Ấn tượng sâu sắc nhất trong tâm trí người đọc là đôi bàn tay Tnú bị đốt cháy bởi nhựa xà nu, mười ngón tay bùng bùng như mười ngọn đuốc. Hình ảnh ấy vừa có ý nghĩa tố cáo tội ác của giặc, vừa thể hiện lòng dũng cảm, khí phách kiên cường của Tnú. Đây là một chi tiết nghệ thuật đặc sắc giàu tính tạo hình
– Giặc đốt mười đầu ngón tay Tnú nhằm khủng bố tinh thần đấu tranh của dân làng Xô Man, nhưng ngược lại, chính sự kiên cường của Tnú đã khiến mưu đồ ấy thất bại. Tnú nhắm mắt lại rồi mở mắt ra trừng trừng. Nỗi đau lên đến tột cùng khiến anh cắn nát cả môi nhưng anh vẫn kiên quyết không kêu. Nỗi đau nén lại trong lồng ngực rồi òa vỡ thành một lời hiệu triệu mạnh mẽ: Giết. Tiếng thét căm hờn ấy đã khiến dân làng bừng tỉnh, vùng lên cầm giáo mác giết sạch quân thù. Mười ngọn đuốc trên mười đầu ngón tay Tnú đã tiếp thêm sức mạnh và niềm tin cho dân làng Xô Man, đã cháy lên thành ngọn lửa của tinh thần đồng khởi.
3. Chỉ ra sự tương đồng và khác biệt
– Sự tương đồng: Hai nhân vật đều phải chịu đựng đau đớn về thể xác, đơn độc khi chiến đấu; đều là hình mẫu của người chiến sĩ dũng cảm kiên cường, tuyệt đối trung thành với Cách mạng; là biểu tượng của thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mĩ.
– Việt: Chiến đấu với tinh thần quả cảm mà hồn nhiên, lạc quan yêu đời, tin tưởng vào Cách mạng, vào đồng đội. Ở Việt chủ yếu là nỗi đau thể xác.
– Tnú: Chiến đấu bằng ý chí quyết tâm, lòng căm thù giặc sâu sắc, do vừa trải qua nỗi đau cá nhân khi vợ và con bị giết hại ngay trước mắt. Ở Tnú có sự cộng hưởng cả nỗi đau tinh thần và thể xác.
c) Kết bài
Nêu khái quát vẻ đẹp của hai nhân vật trong những hoàn cảnh đấu tranh gian khổ khác nhau; sự thành công trong nghệ thuật miêu tả, phân tích diễn biến tâm lí nhân vật. (0,5 điểm)
Xem thêm Tuyển chọn đề thi Ngữ Văn kì thi THPT – Đề số 13 tại đây.