Chứng minh rằng Cái đoạn chị Dậu đánh nhau với tên cai lệ là một đoạn tuyệt khéo

Đề bài: Chứng minh rằng: “Cái đoạn chị Dậu đánh nhau với tên cai lệ là một đoạn tuyệt khéo”(Nguyễn Tuân)

Bài làm

Đoạn văn chị Dậu đánh nhau với cai lệ tiêu biểu cho ngòi bút và phong cách của Ngô Tất Tố.

Tình thế hiểm nguy xuất hiện khi anh Dậu vừa “run rẩy cất bát cháo anh mới kề vào miệng” thì cả lũ tay sai ác ôn đã “sầm sập tiến vào với những roi song, tay thước và dây thừng” (cụm từ láy “sầm sập” có sức diễn tả trạng thái vừa

nặng nề vừa nhanh chóng, vừa đe dọa vừa tiến công). Đã thế, chúng còn được trang bị đầy đủ những thứ vũ khí chuyên dụng cho việc đánh người (roi song, tay thước); cho việc trói người (dây thừng). Nhân vật đại diện cho quyền uy ra oai đầu tiên và hắn cũng là người có quyền hành to nhất ở đấy. Đó là cai lệ.

Chứng minh rằng: "Cái đoạn chị Dậu đánh nhau với tên cai lệ là một đoạn tuyệt khéo”(Nguyễn Tuân)
Chứng minh rằng: “Cái đoạn chị Dậu đánh nhau với tên cai lệ là một đoạn tuyệt khéo”(Nguyễn Tuân)

– Trước hết là nghệ thuật xây dựng nhân vật:

+ Nhân vật cai lệ được miêu tả bằng cách cho hắn lộ rõ bản chất ngay từ đầu, từ điệu bộ, cử chỉ, hành động đến lời nói… Hắn không che giấu bản chất tay sai của mình và sử dụng nó để trấn áp, đe dọa những người dân hiền lành thấp cổ bé họng. Hắn đánh, hắn trói… hắn là con người — công cụ. Ớ con người hắn không có chỗ cho tình người hay nói cách khác hắn đã mất hết tính người. Hắn ra oai bằng cách “gõ đầu roi xuống đất”, bằng cách “thét” với “giọng khàn khàn”. Cách miêu tả ở đây cho thấy sự lố bịch của con người này, bởi vì “gõ xuống đất” thì có dùng sức mạnh bao nhiêu đi chăng nữa, tiếng vang cũng không lớn, nhưng với hắn thì phải “gõ” chứ không thể nào khác được. Cái “giọng khàn khàn” của hắn thì dù có “thét” hay “gào”, “rống” đi chăng nữa thì âm vực cũng không thoát ra khỏi cái “khàn khàn” (hệ quả của việc hắn đã “hút nhiều xái cũ” — sự việc cho thấy địa vị tay sai thấp hèn của hắn) nhưng hắn vẫn “thét”. Sự tác oai tác quái của hắn chưa dừng ở đó. Hắn còn “trợn ngược hai mắt”, “hắn quát”, hắn “hằm hè”, hắn ăn nói cục cằn thô lỗ theo kiểu những tay đầu gấu vô học: “Mày định nói cho cha mày nghe đấy à?”. Đã thế, hắn không chỉ nói mà còn kèm theo hành động: “Vừa nói hắn vừa bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch”, rồi “sấn đến trói anh Dậu”. Hắn hành động như một con thú say mồi: “tát vào mặt chị Dậu một cái bốp, rồi hắn cứ nhảy vào cạnh anh Dậu”. Thậm chí khi bị quật ngã “chỏng quèo” thì hắn “vẫn nham nhảm thét trói vợ chồng kẻ thiếu sưu”. Một đoạn văn ngắn nhưng tràn ngập âm thanh của đe dọa, của khủng bố, của chết chóc, được khắc họa bằng các hình ảnh thính giác, hình ảnh thị giác, làm nổi bật nhân vật cai lệ — một tên tay sai khát máu, một kẻ chuyên ức hiếp người lành. Hắn là hiện thân cho loại người — công cụ, loại nô lệ tuyết đối trung thành với chủ. Chính tính chất nô lệ, công cụ này đã loại bỏ tính người ra khỏi con người hắn.

+ Hình tượng chị Dậu cũng là một thành công của tiểu thuyết Tắt đènnói chung và của đoạn trích Tức nước vỡbờ nói riêng. Chị Dậu được miêu tả theo quá trình phản ứng (đối với cai lệ và bọn tay sai nhà lí trưởng) từ thấp đến cao, từ nhún nhường đến dữ dội, quyết liệt, phù hợp với đặc điểm tâm lí và tính cách nhân vật.

Sự đối lập giữa hai nhân vật chị Dậu V^L cai lệ thể hiện qua sự khác biệt về động cơ hành động. Đối với chị Dậu, mọi phản ứng chống trả đều xuất phát từ tình yêu chồng thương con, đều gắn với con người; còn đối với tên cai lệ, hắn hành động theo bản năng công cụ.

Khi phân trần với cai lệ và đám người nhà lí trưởng, giọng chị Dậu “run run” nhưng không phải là run sợ mà là một cách thế hiện sự mềm mỏng, nhẹ nhàng. Tiếp đó, chị “vẫn thiết tha” van nài (“Xin ông trông lại”), thậm chí khi tên cai lệ chạy “sầm sập tới chỗ anh Dậu” thì sắc của chị biến đối, chị “xám mặt” “chạy đến đỡ tay hắn”. Cách xưng hô cho đến lúc này vẫn là cách xưng hô nhún nhường, vẫn là sự van xin: “Cháu van ông, nhà cháu mới tỉnh được một lúc, ông tha cho”. Nhưng sự van xin đó là vô ích trước một công cụ nô lệ không chút tính người. Tên cai lệ vẫn “sấn đến”. Các động từ chỉ hành động của cai lệ (“giật phắt”, “chạy sầm sập”, “sấn đến”,….) diễn tả sự thô bạo đến cùng cực của hắn. Vì thế, chị Dậu không còn nhún nhường hay phân trần nữa mà chị đấu lí. Quan hệ xưng hô cũng thay đổi: “Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ”. Đến lúc này, tính chất công cụ của tên cai lệ càng lộ rõ hơn bao giờ hết. Và cao trào của xung đột được tái hiện bằng sự chuyển đổi bất ngờ của chị Dậu cả về thái độ lẫn hành động: “Chị Dậu nghiến hai hàm răng: Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!”. Sự chuyển đổi cách xưng hô trong đoạn văn này hết sức thú vị và đầy kịch tính. Ban đầu, chị Dậu hạ mình (gọi cai lệ là ôngxưng cháu, van xin: “cháu van ông”) sau đó đến quan hệ đồng đẳng (tôi – ông) và cuối cùng là hạ thấp triệt để đối thủ (bà – mày). Thái độ của chị Dậu rất quyết liệt và điều đó càng thể hiện rõ qua hành động “túm lấy cổ” cai lệ “ấn dúi ra cửa”. Tên tay sai – công cụ, nô lệ – bị quật ngã.

Cai lệ – công cụ tay sai ở cấp huyện và đồng thời với hắn, tên “người nhà lí trưởng” – tay sai cấp làng – cũng bị đánh gục: “hắn bị chị này túm tóc lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm”. Trong khoảnh khắc, quyền uy của chê độ thuộc địa nửa phong kiến đã bị “người đàn bà lực điền”, “bị chị chồng con mọn” cho đo ván không chỉ bằng sức lực mà còn bằng cả sự thức tỉnh khởi nguồn từ sự uất ức bị dồn nén, chất chứa, sự tủi nhục cực khổ khi phải đứt ruột bán con, bán chó để lo cho đủ một suất SƯU cho chồng. Chị Dậu sẵn sàng chấp nhận điều tồi tệ nhất: “Thà ngồi tù. Để cho chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được”.

– Cách miêu tả linh hoạt thông qua sự quan sát tinh tường và sự sắp xếp khéo léo các tình tiết, sự kiện. Các sắp xếp, bố trí chi tiết, sự kiện, hành động dồn dập tạo ra sự căng thẳng, kịch tính. Một bên là những tên đàn ông được trang bị vũ khí đủ để tạo khả năng sát thương và một bên là người đàn bà tay không, chồng ốm, con thơ; một bên là quyền uy thống trị một bên là sự khốn cùng do SƯU cao thuế nặng. Không gian xảy ra sự kiện là khoảng sân trước nhà anh Dậu — một không gian hẹp, không gian dồn đẩy, thời gian diễn ra sự kiện cũng rất ngắn nhưng số nhân vật thì khá nhiều và thuộc hai phía đối kháng nhau. Bao trùm lên đó là âm thanh của trống, của tù và, của không khí ngột ngạt đau khổ trong mùa SƯU thuế.

– Ngôn ngữ của các nhân vật phù hợp với tâm lí, tính cách của từng người. Nhân vật nào thì có kiểu ngôn ngữ đó. Với một nhân vật, ngôn ngữ cũng bộc lộ những thái độ, trạng thái tình cảm khác nhau: cách nói của chị Dậu khi nói với bà lão láng giềng hay với chồng, khác khi nói với tên cai lệ, và khi nói với tên cai lệ cũng có sự thay đổi cách nói, cách dùng từ, cách xưng hô theo diễn biến của câu chuyện.

Vì thế, “Cái đoạn chị Dậu đánh với tên cai lệ là một đoạn tuyệt khéo” (Nguyễn Tuân)

Bài liên quan

Những Bài Văn Mẫu Hay Lớp 8

Những Bài Văn Mẫu Hay Lớp 8

Học Tốt Ngữ Văn xin giới thiệu với bạn đọc bộ những bài văn mẫu…
Phân tích bài Bàn luận về phép học của Nguyễn Thiếp

Phân tích bài Bàn luận về phép học của Nguyễn Thiếp

Đề bài: Phân tích – Bình luận đoạn trích Bàn luận về phép học (trích…
Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh

Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh

Đề bài: Phân tích – Bình luận bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Hồ…
Phân tích bài thơ Hai chữ nước nhà của Á Nam Trần Tuấn Khải

Phân tích bài thơ Hai chữ nước nhà của Á Nam Trần Tuấn Khải

Đề bài: Phân tích – Bình luận bài thơ Hai chữ nước nhà của Á…

Bình luận

Địa chỉ email của bạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *