Phân tích bài ca dao: “Bao giờ cho đến tháng ba…”

Phân tích bài ca dao: “Bao giờ cho đến tháng ba…” – Bài làm 1

Trong kho tàng ca dao Việt Nam, có rất nhiều chủ đề khác nhau. Có bài ca dao nói về cách ứng xử trong cuộc sống, có những bài ca dao lại là những bài đồng dao tái hiện những sự kiện hàng ngày, cũng có những bài ca dao là tiếng cười hài hước sau những giờ làm việc căng thẳng. Trong các bài ca dao, có những bài đồng dao dành cho thiếu nhi, có những sự kiện sự việc rất lạ, gây được hứng thú cho các em, đồng thời cũng gửi gắm trong đó những tâm tư, tình cảm của ông cha ta. Một bài đồng dao trong các bài thuộc chủ đề này đó là bài: “Bao giờ cho đến tháng ba….Chim ri đuổi đánh vỡ đầu bồ nông”.

van mau phan tich bai ca dao bao gio cho den thang ba Phân tích bài ca dao: “Bao giờ cho đến tháng ba…”

Mở đầu bài ca dao là lời nói về thời gian xảy ra đối với những sự việc trong bài ca dao:

“Bao giờ cho đến tháng ba

Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng”

Bao giờ cho đến tháng ba – một câu hỏi, cũng như là một câu thông báo ,rằng đến tháng ba sẽ có một số sự kiện rất hay, rất vui, rất bất ngờ. Và đúng như thế, sau đó là một loạt những sự kiện lạ lùng:

“Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng,

Hùm nằm cho lợn liếm lông

Một chục quá hồng nuốt lão tám mươi.

Nắm xôi nuốt trẻ lên mười,

Con gà be rượu nuốt người lao đao”

Một loạn những hiện tượng lạ được kể ra. Ếch luôn là con mồi của rắn, thì đến tháng ba lại có thể cắn lại rắn, tha ra đồng xử lí. Bình thường lợn là một con vật hiền lành, được người nuôi, luôn ở trong chuồng và bị hùm ( cọp) đe dọa, rình rập. Vậy mà khi tháng ba tới, hùm lại trở nên thân thiết với lợn, nằm cho lợn liếm lông, như là hai con vật đang gần gũi, đùa giỡn với nhau.

Không chỉ các con vật có hành động ngược lại những gì thường ngày, mà cả con người và những vật dụng xung quanh cũng vật. Con gà, nắm xôi, quả hồng thường là đồ ăn cho người, vậy mà đến giờ, quả hồng “nuốt” ông lão tám mươi, nắm xôi lại “nuốt” đứa trẻ, con gà lại “nuốt” người say rượu. Hồng là loại quả khi chín có màu đỏ hồng rất đẹp, và còn rất mềm, phù hợp cho những người cao tuổi ăn. Tiếp đến là nắm xôi, đó là thức ăn rất quen thuộc đối với các em nhỏ. Chúng có thể xuất hiện trong đám cỗ, cũng có thể xuất hiện vào các bữa ăn sáng thường ngày. Hai hình ảnh đầu là hai hình ảnh nói đến tuổi trẻ và tuổi già với những đồ ăn thức uống quen thuộc. Nhưng đến hình ảnh tiếp theo, đó là hình ảnh một người say rượu lao đao, không còn tỉnh táo, đi không vững, mồm luôn miệng nói những từ, những câu không rõ ràng. Đó thật là một hình ảnh không đẹp, đáng lên án. Ông cha ta có câu: “Nam vô tửu như kì vô phong”, tuy nhiên, đó không phải là cái cớ để cho những người thường xuyên say rượu bao biện cho mình. Uống rượu quá nhiều sẽ khiến cho người đó mất tỉnh táo, gây hại cho chính mình và những người xung quanh. Đây là ý phê phán một cách kín đáo của ông cha ta thông qua những câu ca dao trên.

Ở đoạn tiếp theo của bài ca dao là những hình ảnh rất quen thuộc của đồng quê Việt Nam:

“Lươn nằm cho trúm bò vào,

Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô.

Lúa mạ nhảy lên ăn bò,

Cỏ năn cỏ lác rình mò bắt trâu.

Gà con đuổi đánh diều hâu,

Chim ri đuổi đánh vỡ đầu bồ nông”

Lại là một loạt các hình ảnh ngược lại với ngoài đời thực. Trúm là vật dụng dùng để bắt lươn, vậy mà giờ lươn lại nằm cho trúm bò vào. Cào cào vốn bị cá rô đuổi bắt, thế mà ở đây lại đuổi theo như đòi ăn thịt cá rô. Trâu, bò là động vật ăn cỏ, ăn rơm, ăn lúa, vậy mà giờ bò lại bị lúa mạ nhảy lên ăn, trâu thì bị các loại cỏ mình thường hay ăn rình mò để bắt. Tiếp đến, là một hình ảnh khác của loài động vật dễ thương-gà con. Gà con là đối tượng rất hay bị diều hâu săn đuổi, vì chúng vô cùng yếu ớt, chưa có khả năng tự bảo vệ cho mình và chống lại diều hâu. Thế nhưng trong bài ca dao này lại được đuổi đánh diều hâu, như một kết cục có hậu, kẻ xấu bao giờ cũng bị thua, bị đánh đuổi. Cũng tương tự như thế, bồ nông và chim ri đánh nhau, chim ri luôn là kẻ thua, nhưng trong bài ca dao này thì chim ri lại có thể đuổi đánh, thậm chí đuổi đánh vỡ đầu.
Bài ca dao sử dụng toàn bộ những hình ảnh rất gần gũi, thân thiết với đời sống hàng ngày. Có những hình ảnh tốt, cũng có những hình ảnh ẩn trong đó là sự phê phán nhẹ nhàng. Tháng ba là tháng cuối cùng của mùa xuân, là khi người nông dân chuẩn bị bước vào gieo cấy, đó là mùa sinh sôi nảy nở, mùa của sự sống. Ông cha ta lồng ghép trong đó một mơ ước về sự thay đổi tốt đẹp hơn, một cơ hội mới tốt hơn.

Bài ca dao là một bức tranh, cung cấp những kiến thức cho trẻ em một cách vô cùng đặc biệt: sử dụng cách nói ngược và một số các biện pháp nghệ thuật khác, khiến cho bài ca dao có nhịp điệu, giúp cho trẻ em dễ nhớ và dễ thuộc hơn. Từ đó, các em hiểu hơn về thế giới xung quanh mình, cũng như thêm yêu quê hương đất nước mình hơn. Đó chính là những bài học đầu tiên, như cội nguồn của dòng suối để nuôi dưỡng lên những người con yêu nước, những thế hệ xây dựng đất nước trong tương lai.

Phân tích bài ca dao: “Bao giờ cho đến tháng ba…” – Bài làm 2

Trong văn học dân gian có một thể loại khá đặc biệt là đồng dao. Thực ra, đồng dao cũng là ca dao nhưng thường sáng tác cho trẻ con đọc hoặc hát khi chăn trâu cắt cỏ trên cánh đồng hoặc lúc vui chơi trên bờ đê, ngõ xóm. Bản sắc đồng dao gần gũi với ngụ ngôn, có phong vị của thơ trào phúng, kết hợp với chất trữ tình ngọt ngào vốn có của ca dao, rất phù hợp với tính hồn nhiên, ham hiểu biết của trẻ thơ. Đồng dao có đề tài muôn hình muôn vẻ. Phạm vi miêu tả của nó rất rộng: từ cây cỏ, loài vật đến sinh hoạt xã hội, các trò chơi con trẻ v.v… Nó mở ra trước mắt trẻ em cả một thế giới rộng lớn. Chủ đề đồng dao thường diễn tả tinh thần lạc quan yêu đời, đồng thời ẩn chứa triết lí về nhân sinh quan, thế giới quan của nhân dân lao động trong xã hội phong kiến ngày xưa. Bài đồng dao dưới đây là bức tranh phong phú về thế giới tự nhiên và cuộc sống của con người:

Bao giờ cho đến tháng ba,

Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng,

Hùm nằm cho lợn liếm lông

Một chục quá hồng nuốt lão tám mươi.

Nắm xôi nuốt trẻ lên mười,

Con gà be rượu nuốt người lao đao.

Lươn nằm cho trúm bò vào,

Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô.

Lúa mạ nhảy lên ăn bò,

Cỏ năn cỏ lác rình mò bắt trâu.

Gà con đuổi đánh diều hâu,

Chim ri đuổi đánh vỡ đầu bồ nông

Những hiện tượng mà bài đồng dao miêu tả toàn là ngược đời, chẳng bao giờ xảy ra trọng thực tế. Qua đó, tác giả chế giễu những hiện tượng phi lí trong xã hội, đồng thời đề cập tới sự xoay vần muôn màu muôn vẻ của thế giới tự nhiên và cuộc sống của con người.

Xem thêm:  Cảm nhận về hình ảnh Đăm Săn trong đoạn trích Chiến thắng Mơ Tao, Mơ Xây

Kết cấu của bài đồng dao này là kiểu kết cấu trùng điệp, đề cập tới rất nhiều nhân vật với nhiều sự kiện thú vị, hấp dẫn.  Mở đầu lả một câu hỏi mang tính ước lệ: Bao giờ cho đến tháng ba?Đọc toàn bộ bài đồng dao, ta thấy rất nhiều hiện tượng trong bài không gắn với  tháng ba. Chẳng hạn, tháng ba chưa có hồng, chưa có cào cào, v.v… Mặt khác, nếu các hiện tượng như Nắm xôi nuốt trẻ lên mười, Con gà be rượu nuốt người lao đao là có thật thì nó xảy ra quanh năm chứ chẳng cứ gì tháng ba mới có.

Những hiện tượng được miêu tả trong bài đồng dao này nếu nói xuôi thì chẳng có gì để nói. Nói ngược mới có chuyện, chuyện cuộc đời cũng như chuyện nghệ thuật. Cách nói ngược này rất phổ biến trong hò vè, ca dao, chẳng hạn nói ngược trong vè: Lên núi đặt lờ, xuống sông bổ củi; nói ngược trong ca dao ; Bao giờ chạch đẻ ngọn đa, Sáo đẻ dưới nước thì ta lấy mình, Bao giờ rau diếp làm đình, Gỗ lim thái ghém thì mình lấy ta…

Trong toàn bộ mười một câu tiếp theo của bài đồng dao, các tác giả dân gian đã sử dụng nghệ thuật nói ngược làm phương tiện nghệ thuật chủ đạo nhằm lôi cuốn sự chú ý qua người nghe và khắc sâu kiến thức muốn truyền đạt; qua đó kín đáo gửi gắm suy nghĩ và tình cảm của mình.

Tháng ba là thời gian cuối xuân, đầu hạ với những cơn mưa rào, báo hiệu sự thay đổi của thời tiết, khí hậu. Ở đây, tháng ba mang tính chất ước lệ, tượng trưng cho khao khát đổi thay trong cuộc sống của con người. Câu hỏi tu từ mở đẩu bài đồng dao thể hiện khao khát, mong mỏi ấy:

Bao giờ cho đến tháng ba,

Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng.

Hùm nằm cho lợn liếm lông,

Ếch là con vật bé nhỏ thựờng sống quẩn quanh ở góc ao, vũng nước; còn rắn là con vật có nọc độc nguy hiểm, kẻ thù xưa nay của ếch. Tháng ba đến tức là cơ hội vừa đến. Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng, thật bất ngờ và hả hê, thỏa mãn vì ếch đã trả được mổi thù truyền kiếp.

Lợn là con vật hiền lành, chỉ sống loanh quanh trong vườn, trong chuồng, là mồi ngon của con hùm to lớn, hung dữ. Vậy mà giờ đây, hùm lại ngoan ngoãn nằm im cho lợn liếm lông. Quả là chuyện lạ, chuyện thay bậc đổi ngôi!

Tiếp theo, bài đồng dạo chuyển sang đề tài sinh hoạt trong cuộc sống hằng ngày:

Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi.

Nắm xôi nuốt trẻ lên mười,

Con gà be rượu nuốt người lao đao.

Những quả hồng xinh xắn, đỏ tươi, chín mọng thường thấy trong dịp Tết Trung thu là món quà quý giá mà con cháu trân trọng dâng lên để mừng thọ lão tám mươi. Nắm xôi là món quà thơm ngon hằng ngày rất được ưa thích của trẻ lên mười. Hình ảnh nắm xôi và trẻ lên mười thật xinh xắn, nhỏ bé, dễ thương, dễ mến!

Nhưng cuộc sống đâu chỉ có toàn chuyện vui, chuyện đáng yêu mà bên cạnh đấy còn có những chuyện đáng trách, đáng ghét nữa. Đó là hình ảnh người uống rượu đến mức say nhè mà bài đồng dao gọi là người lao đao. Hình ảnh người say ngật ngưỡng, chệnh choạng, đi không vững sau khi nhắm hết con gà, be rượu thật là đáng cười. Những lúc đó thì đúng là rượu nuốt người, chứ đâu phải người nuốt rượu nữa. Từ xưa, đồng dao đã giễu cợt, châm biếm tệ nghiện rượu, một thói xấu chỉ đem lại tác hại cho cuộc sống con người.

Ở đoạn cuối của bài đồng dao, tác giả tiếp tục dẫn dắt các em nhỏ đến với thế giới sinh động của các loài vật và cây cỏ. Nghệ thuật nói ngược làm cho việc miêu tả thêm ấn tượng và hiệu quả:

Lươn nằm cho trúm bò vào,

Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô.

Lúa mạ nhảy lên ăn bò,

Cỏ năn cỏ lác rình mò bắt trâu.

Gà con đuổi đánh diều hâu,   

Chim ri đuổi đánh vỡ đẩu bồ nông.

Trong cuộc sống thường ngày, mọi việc diễn ra ngược lại như vậy: trũm được dùng để bắt lươn, cá rô bắt cào cào, bò ăn lúa mạ, trâu ăn cỏ năn, cỏ lác, diều hâu bắt gà con và bồ nông đuổi đánh chim ri… Nhưng với cái nhìn hài hước, hóm hỉnh, mọi trật tự của thiên nhiên có sự đảo lộn. Các động từ đuổi bắt, nhảy lên, rình mò, đuổi đánh vỡ đầu thật sinh động, ngộ nghĩnh, có khả năng miêu tả và biểu cảm kì lạ.

Như trên đã nói, nghệ thuật miêu tả của bài đồng dao vô cùng độc đáo. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa thủ pháp nội ngược, yếu tố thậm xưng, ước lệ với giọng điệu hài hước, dí dỏm. Nếu chúng ta lược bỏ giọng điệu chế giễu những hiện tượng phi lí ngược đời thì bài đồng dao là bức tranh sinh động về con người và cuộc sống, nhằm mục đích cung cấp những kiến thức cơ bản về cỏ cây (quả hồng, lúa mạ, cỏ năn, cỏ lác), về loài vật (cá rô, con gà, con lươn, cào cào, chim ri, con bò, con trâu, diều hâu, con hùm, con ếch, bồ nông), về đồ vật, sự vật (nắm xôi be rượu) và về con người (lão tám mươi, trẻ lên mười, người lao đao…). Đó là những kiến thức đầu đời quý giá giúp cho trẻ em làm quen, tìm hiểu, khám phá, tiếp cận dần dần với thế giới tự nhiên phong phú và xã hội con người phức tạp. Cách nói ngược gây ấn tượng và lôi cuốn sự chú ý, tạo sức hấp dẫn, gợi trí tò mò, giúp các em dễ thuộc lòng bài đồng dao để từ đó quan tâm tìm hiểu, suy nghĩ về thế giới xung quanh.

Ngày nay ở nông thôn, mỗi khi cùng nhau vui chơi, nhảy múa, trẻ em vẫn hát đồng dao để làm cho không khí càng thêm hào hứng, sôi động. Có thể ý nghĩa sâu xa, thâm thúy của bài đồng dao này con trẻ chưa hiểu hết, nhưng lời hát, nhịp điệu và trò chơi đi kèm bài đồng dao thì các em đón nhận một cách dễ dàng. Rồi sau này lớn lên, các em sẽ suy ngẫm ra ý tứ sâu xa của bài đồng dao mà lúc còn bé các em đã từng say mê, yêu thích và càng thương yêu thêm chốn quê nghèo, nơi minh đã sinh ra và lớn lên.

Cũng như nhiều bài đồng dao khác, bài đồng dao bao giờ cho đến tháng ba… mãi mãi hấp dẫn người lớn và trẻ em. Nó gợi mở những hiểu biết, suy nghĩ về thiên nhiên, về thế giới động vật, về con người, về khao khát ước mơ công lí, ước mơ hạnh phúc. Sức sống của đồng dao có thể ví như một dòng suối trong veo, cứ róc rách tuôn chảy mà không bao giờ khô cạn.

Phân tích bài ca dao: “Bao giờ cho đến tháng ba…” – Bài làm 3

Trong kho tàng ca dao Việt Nam, có rất nhiều chủ đề khác nhau. Có bài ca dao nói về cách ứng xử trong cuộc sống, có những bài ca dao lại là những bài đồng dao tái hiện những sự kiện hàng ngày, cũng có những bài ca dao là tiếng cười hài hước sau những giờ làm việc căng thẳng. Trong các bài ca dao, có những bài đồng dao dành cho thiếu nhi, có những sự kiện sự việc rất lạ, gây được hứng thú cho các em, đồng thời cũng gửi gắm trong đó những tâm tư, tình cảm của ông cha ta. Một bài đồng dao trong các bài thuộc chủ đề này đó là bài: “Bao giờ cho đến tháng ba….Chim ri đuổi đánh vỡ đầu bồ nông”.

Xem thêm:  Bình giảng đoạn thơ trong bài “Vội vàng” của Xuân Diệu

Mở đầu bài ca dao là lời nói về thời gian xảy ra đối với những sự việc trong bài ca dao:

“Bao giờ cho đến tháng ba

Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng”

Bao giờ cho đến tháng ba – một câu hỏi, cũng như là một câu thông báo ,rằng đến tháng ba sẽ có một số sự kiện rất hay, rất vui, rất bất ngờ. Và đúng như thế, sau đó là một loạt những sự kiện lạ lùng:

“Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng,

Hùm nằm cho lợn liếm lông

Một chục quá hồng nuốt lão tám mươi.

Nắm xôi nuốt trẻ lên mười,

Con gà be rượu nuốt người lao đao”

Một loạn những hiện tượng lạ được kể ra. Ếch luôn là con mồi của rắn, thì đến tháng ba lại có thể cắn lại rắn, tha ra đồng xử lí. Bình thường lợn là một con vật hiền lành, được người nuôi, luôn ở trong chuồng và bị hùm ( cọp) đe dọa, rình rập. Vậy mà khi tháng ba tới, hùm lại trở nên thân thiết với lợn, nằm cho lợn liếm lông, như là hai con vật đang gần gũi, đùa giỡn với nhau.

Không chỉ các con vật có hành động ngược lại những gì thường ngày, mà cả con người và những vật dụng xung quanh cũng vật. Con gà, nắm xôi, quả hồng thường là đồ ăn cho người, vậy mà đến giờ, quả hồng “nuốt” ông lão tám mươi, nắm xôi lại “nuốt” đứa trẻ, con gà lại “nuốt” người say rượu. Hồng là loại quả khi chín có màu đỏ hồng rất đẹp, và còn rất mềm, phù hợp cho những người cao tuổi ăn. Tiếp đến là nắm xôi, đó là thức ăn rất quen thuộc đối với các em nhỏ. Chúng có thể xuất hiện trong đám cỗ, cũng có thể xuất hiện vào các bữa ăn sáng thường ngày. Hai hình ảnh đầu là hai hình ảnh nói đến tuổi trẻ và tuổi già với những đồ ăn thức uống quen thuộc. Nhưng đến hình ảnh tiếp theo, đó là hình ảnh một người say rượu lao đao, không còn tỉnh táo, đi không vững, mồm luôn miệng nói những từ, những câu không rõ ràng. Đó thật là một hình ảnh không đẹp, đáng lên án. Ông cha ta có câu: “Nam vô tửu như kì vô phong”, tuy nhiên, đó không phải là cái cớ để cho những người thường xuyên say rượu bao biện cho mình. Uống rượu quá nhiều sẽ khiến cho người đó mất tỉnh táo, gây hại cho chính mình và những người xung quanh. Đây là ý phê phán một cách kín đáo của ông cha ta thông qua những câu ca dao trên.

Ở đoạn tiếp theo của bài ca dao là những hình ảnh rất quen thuộc của đồng quê Việt Nam:

“Lươn nằm cho trúm bò vào,

Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô.

Lúa mạ nhảy lên ăn bò,

Cỏ năn cỏ lác rình mò bắt trâu.

Gà con đuổi đánh diều hâu,

Chim ri đuổi đánh vỡ đầu bồ nông”

Lại là một loạt các hình ảnh ngược lại với ngoài đời thực. Trúm là vật dụng dùng để bắt lươn, vậy mà giờ lươn lại nằm cho trúm bò vào. Cào cào vốn bị cá rô đuổi bắt, thế mà ở đây lại đuổi theo như đòi ăn thịt cá rô. Trâu, bò là động vật ăn cỏ, ăn rơm, ăn lúa, vậy mà giờ bò lại bị lúa mạ nhảy lên ăn, trâu thì bị các loại cỏ mình thường hay ăn rình mò để bắt. Tiếp đến, là một hình ảnh khác của loài động vật dễ thương-gà con. Gà con là đối tượng rất hay bị diều hâu săn đuổi, vì chúng vô cùng yếu ớt, chưa có khả năng tự bảo vệ cho mình và chống lại diều hâu. Thế nhưng trong bài ca dao này lại được đuổi đánh diều hâu, như một kết cục có hậu, kẻ xấu bao giờ cũng bị thua, bị đánh đuổi. Cũng tương tự như thế, bồ nông và chim ri đánh nhau, chim ri luôn là kẻ thua, nhưng trong bài ca dao này thì chim ri lại có thể đuổi đánh, thậm chí đuổi đánh vỡ đầu.

Bài ca dao sử dụng toàn bộ những hình ảnh rất gần gũi, thân thiết với đời sống hàng ngày. Có những hình ảnh tốt, cũng có những hình ảnh ẩn trong đó là sự phê phán nhẹ nhàng. Tháng ba là tháng cuối cùng của mùa xuân, là khi người nông dân chuẩn bị bước vào gieo cấy, đó là mùa sinh sôi nảy nở, mùa của sự sống. Ông cha ta lồng ghép trong đó một mơ ước về sự thay đổi tốt đẹp hơn, một cơ hội mới tốt hơn.

Bài ca dao là một bức tranh, cung cấp những kiến thức cho trẻ em một cách vô cùng đặc biệt: sử dụng cách nói ngược và một số các biện pháp nghệ thuật khác, khiến cho bài ca dao có nhịp điệu, giúp cho trẻ em dễ nhớ và dễ thuộc hơn. Từ đó, các em hiểu hơn về thế giới xung quanh mình, cũng như thêm yêu quê hương đất nước mình hơn. Đó chính là những bài học đầu tiên, như cội nguồn của dòng suối để nuôi dưỡng lên những người con yêu nước, những thế hệ xây dựng đất nước trong tương lai.

Phân tích bài ca dao: “Bao giờ cho đến tháng ba…” – Bài làm 4

Trong văn học dân gian có một thể loại khá đặc biệt là đồng dao. Thực ra, đồng dao cũng là ca dao nhưng thường sáng tác cho trẻ con đọc hoặc hát khi chăn trâu cắt cỏ trên cánh đồng hoặc lúc vui chơi trên bờ đê, ngõ xóm. Bản sắc đồng dao gần gũi với ngụ ngôn, có phong vị của thơ trào phúng, kết hợp với chất trữ tình ngọt ngào vốn có của ca dao, rất phù hợp với tính hồn nhiên, ham hiểu biết của trẻ thơ. Đồng dao có đề tài muôn hình muôn vẻ. Phạm vi miêu tả của nó rất rộng: từ cây cỏ, loài vật đến sinh hoạt xã hội, các trò chơi con trẻ v.v… Nó mở ra trước mắt trẻ em cả một thế giới rộng lớn. Chủ đề đồng dao thường diễn tả tinh thần lạc quan yêu đời, đồng thời ẩn chứa triết lí về nhân sinh quan, thế giới quan của nhân dân lao động trong xã hội phong kiến ngày xưa. Bài đồng dao dưới đây là bức tranh phong phú về thế giới tự nhiên và cuộc sống của con người:

Bao giờ cho đến tháng ba,

Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng,

Hùm nằm cho lợn liếm lông

Một chục quá hồng nuốt lão tám mươi.

Nắm xôi nuốt trẻ lên mười,

Con gà be rượu nuốt người lao đao.

Lươn nằm cho trúm bò vào,

Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô.

Lúa mạ nhảy lên ăn bò,

Cỏ năn cỏ lác rình mò bắt trâu.

Gà con đuổi đánh diều hâu,

Chim ri đuổi đánh vỡ đầu bồ nông

Những hiện tượng mà bài đồng dao miêu tả toàn là ngược đời, chẳng bao giờ xảy ra trọng thực tế. Qua đó, tác giả chế giễu những hiện tượng phi lí trong xã hội, đồng thời đề cập tới sự xoay vần muôn màu muôn vẻ của thế giới tự nhiên và cuộc sống của con người.

Kết cấu của bài đồng dao này là kiểu kết cấu trùng điệp, đề cập tới rất nhiều nhân vật với nhiều sự kiện thú vị, hấp dẫn. Mở đầu lả một câu hỏi mang tính ước lệ: Bao giờ cho đến tháng ba? Đọc toàn bộ bài đồng dao, ta thấy rất nhiều hiện tượng trong bài không gắn với tháng ba. Chẳng hạn, tháng ba chưa có hồng, chưa có cào cào, v.v… Mặt khác, nếu các hiện tượng như Nắm xôi nuốt trẻ lên mười, Con gà be rượu nuốt người lao đao là có thật thì nó xảy ra quanh năm chứ chẳng cứ gì tháng ba mới có.

Xem thêm:  Cảm nhận vẻ đẹp dòng sông hương qua bài “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường

Những hiện tượng được miêu tả trong bài đồng dao này nếu nói xuôi thì chẳng có gì để nói. Nói ngược mới có chuyện, chuyện cuộc đời cũng như chuyện nghệ thuật. Cách nói ngược này rất phổ biến trong hò vè, ca dao, chẳng hạn nói ngược trong vè: Lên núi đặt lờ, xuống sông bổ củi; nói ngược trong ca dao ; Bao giờ chạch đẻ ngọn đa, Sáo đẻ dưới nước thì ta lấy mình, Bao giờ rau diếp làm đình, Gỗ lim thái ghém thì mình lấy ta…

Trong toàn bộ mười một câu tiếp theo của bài đồng dao, các tác giả dân gian đã sử dụng nghệ thuật nói ngược làm phương tiện nghệ thuật chủ đạo nhằm lôi cuốn sự chú ý qua người nghe và khắc sâu kiến thức muốn truyền đạt; qua đó kín đáo gửi gắm suy nghĩ và tình cảm của mình.

Tháng ba là thời gian cuối xuân, đầu hạ với những cơn mưa rào, báo hiệu sự thay đổi của thời tiết, khí hậu. Ở đây, tháng ba mang tính chất ước lệ, tượng trưng cho khao khát đổi thay trong cuộc sống của con người. Câu hỏi tu từ mở đẩu bài đồng dao thể hiện khao khát, mong mỏi ấy:

Bao giờ cho đến tháng ba,

Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng.

Hùm nằm cho lợn liếm lông,

Ếch là con vật bé nhỏ thựờng sống quẩn quanh ở góc ao, vũng nước; còn rắn là con vật có nọc độc nguy hiểm, kẻ thù xưa nay của ếch. Tháng ba đến tức là cơ hội vừa đến. Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng, thật bất ngờ và hả hê, thỏa mãn vì ếch đã trả được mổi thù truyền kiếp.

Lợn là con vật hiền lành, chỉ sống loanh quanh trong vườn, trong chuồng, là mồi ngon của con hùm to lớn, hung dữ. Vậy mà giờ đây, hùm lại ngoan ngoãn nằm im cho lợn liếm lông. Quả là chuyện lạ, chuyện thay bậc đổi ngôi!

Tiếp theo, bài đồng dạo chuyển sang đề tài sinh hoạt trong cuộc sống hằng ngày:

Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi.

Nắm xôi nuốt trẻ lên mười,

Con gà be rượu nuốt người lao đao.

Những quả hồng xinh xắn, đỏ tươi, chín mọng thường thấy trong dịp Tết Trung thu là món quà quý giá mà con cháu trân trọng dâng lên để mừng thọ lão tám mươi. Nắm xôi là món quà thơm ngon hằng ngày rất được ưa thích của trẻ lên mười. Hình ảnh nắm xôi và trẻ lên mười thật xinh xắn, nhỏ bé, dễ thương, dễ mến!

Nhưng cuộc sống đâu chỉ có toàn chuyện vui, chuyện đáng yêu mà bên cạnh đấy còn có những chuyện đáng trách, đáng ghét nữa. Đó là hình ảnh người uống rượu đến mức say nhè mà bài đồng dao gọi là người lao đao. Hình ảnh người say ngật ngưỡng, chệnh choạng, đi không vững sau khi nhắm hết con gà, be rượu thật là đáng cười. Những lúc đó thì đúng là rượu nuốt người, chứ đâu phải người nuốt rượu nữa. Từ xưa, đồng dao đã giễu cợt, châm biếm tệ nghiện rượu, một thói xấu chỉ đem lại tác hại cho cuộc sống con người.

Ở đoạn cuối của bài đồng dao, tác giả tiếp tục dẫn dắt các em nhỏ đến với thế giới sinh động của các loài vật và cây cỏ. Nghệ thuật nói ngược làm cho việc miêu tả thêm ấn tượng và hiệu quả:

Lươn nằm cho trúm bò vào,

Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô.

Lúa mạ nhảy lên ăn bò,

Cỏ năn cỏ lác rình mò bắt trâu.

Gà con đuổi đánh diều hâu,

Chim ri đuổi đánh vỡ đẩu bồ nông.

Trong cuộc sống thường ngày, mọi việc diễn ra ngược lại như vậy: trũm được dùng để bắt lươn, cá rô bắt cào cào, bò ăn lúa mạ, trâu ăn cỏ năn, cỏ lác, diều hâu bắt gà con và bồ nông đuổi đánh chim ri… Nhưng với cái nhìn hài hước, hóm hỉnh, mọi trật tự của thiên nhiên có sự đảo lộn. Các động từ đuổi bắt, nhảy lên, rình mò, đuổi đánh vỡ đầu thật sinh động, ngộ nghĩnh, có khả năng miêu tả và biểu cảm kì lạ.

Như trên đã nói, nghệ thuật miêu tả của bài đồng dao vô cùng độc đáo. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa thủ pháp nội ngược, yếu tố thậm xưng, ước lệ với giọng điệu hài hước, dí dỏm. Nếu chúng ta lược bỏ giọng điệu chế giễu những hiện tượng phi lí ngược đời thì bài đồng dao là bức tranh sinh động về con người và cuộc sống, nhằm mục đích cung cấp những kiến thức cơ bản về cỏ cây (quả hồng, lúa mạ, cỏ năn, cỏ lác), về loài vật (cá rô, con gà, con lươn, cào cào, chim ri, con bò, con trâu, diều hâu, con hùm, con ếch, bồ nông), về đồ vật, sự vật (nắm xôi be rượu) và về con người (lão tám mươi, trẻ lên mười, người lao đao…). Đó là những kiến thức đầu đời quý giá giúp cho trẻ em làm quen, tìm hiểu, khám phá, tiếp cận dần dần với thế giới tự nhiên phong phú và xã hội con người phức tạp. Cách nói ngược gây ấn tượng và lôi cuốn sự chú ý, tạo sức hấp dẫn, gợi trí tò mò, giúp các em dễ thuộc lòng bài đồng dao để từ đó quan tâm tìm hiểu, suy nghĩ về thế giới xung quanh.

Ngày nay ở nông thôn, mỗi khi cùng nhau vui chơi, nhảy múa, trẻ em vẫn hát đồng dao để làm cho không khí càng thêm hào hứng, sôi động. Có thể ý nghĩa sâu xa, thâm thúy của bài đồng dao này con trẻ chưa hiểu hết, nhưng lời hát, nhịp điệu và trò chơi đi kèm bài đồng dao thì các em đón nhận một cách dễ dàng. Rồi sau này lớn lên, các em sẽ suy ngẫm ra ý tứ sâu xa của bài đồng dao mà lúc còn bé các em đã từng say mê, yêu thích và càng thương yêu thêm chốn quê nghèo, nơi minh đã sinh ra và lớn lên.

Cũng như nhiều bài đồng dao khác, bài đồng dao bao giờ cho đến tháng ba… mãi mãi hấp dẫn người lớn và trẻ em. Nó gợi mở những hiểu biết, suy nghĩ về thiên nhiên, về thế giới động vật, về con người, về khao khát ước mơ công lí, ước mơ hạnh phúc. Sức sống của đồng dao có thể ví như một dòng suối trong veo, cứ róc rách tuôn chảy mà không bao giờ khô cạn

Bài liên quan

Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua bài “Cảnh ngày hè”

Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua bài “Cảnh ngày hè”

Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua bài “Cảnh ngày hè” – Bài làm 1 Nguyễn…
Triết lý nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ “Nhàn”

Triết lý nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ “Nhàn”

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) sống gần trọn một thế kỉ đầy biến động…
Tìm hiểu truyện cổ tích Tấm Cám

Tìm hiểu truyện cổ tích Tấm Cám

Tìm hiểu truyện cổ tích Tấm Cám – Bài làm 1 Đã là người Việt Nam,…
Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi

Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi

Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi – Bài…

Bình luận

Địa chỉ email của bạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *