Suy nghĩ của em về vấn đề tham những trong truyện cười “Nhưng nó phải bằng hai mày”

Suy nghĩ của em về vấn đề tham những trong truyện cười “Nhưng nó phải bằng hai mày”- bài làm 1

Truyện cười là những câu chuyện gây cười, và đằng sau tiếng cười đó chính là lời đả kích, châm biếm và lên án sâu cay của dân gian đối với một bộ phận, một tầng lớp nào đó trong xã hội. Truyện cười “Nhưng nó phải bằng hai mày” là câu chuyện giàu ý nghĩa như thế. Câu chuyện phản ánh thói tham nhũng, tham lam vô độ của tầng lớp quan lại trong xã hội phong kiến.

van mau suy nghi cua em ve van de tham nhung trong truyen cuoi nhung no phai bang hai may Suy nghĩ của em về vấn đề tham những trong truyện cười “Nhưng nó phải bằng hai mày”

Câu chuyện cười “Nhưng nó phải bằng hai mày” kể chyện hai người đàn ông là Cải và Ngô vì đánh nhau nên đã dẫn nhau đi kiện. Và câu chuyện đã phản ánh một cách chân thực và rõ nét xã hội phong kiến lúc bấy giờ: cả hai cùng đi lo lót quan trên để đỡ bị đánh đau, đánh nhiều.

Cải đã lo lót trước 5 đồng và yên tâm rằng thầy Lí sẽ xử nhẹ. Còn Ngô thì lo lót 10 đồng, nhiều gấp đôi Cải. Thầy Lí vẫn xử nhẹ cả hai, và phạt Cải đến chục roi. Lúc tình thế bức bách, Cải đã xỏe 5 ngón tay nhắc thầy Lí số tiền đã lo lót từ trước. Nhưng thầy Lí lại lấy nàn tay trái úp lên bàn tay phải muốn nói rằng số tiền của Ngô nhiều hơn gấp đôi. Tình huống này khiến cho Cải sửng sổ. Hơn hết tình tiết gây cười nhưng giàu sức châm biếm là ở lời nói của thầy Lí “Tao biết mày phải, nhưng nó phải bằng hai mày”. Một câu nói ám chỉ, tuy nhiên lại có ý bảo rằng mày lo lót rồi nhưng đứa khác còn lo lót nhiều hơn mày. Công lí, công bằng dường như nằm ở đồng tiền, và ai nhiều tiền hơn thì kẻ đó sẽ thắng. Trong xã hội phong kiến, đồng tiền chính là thước đo của công lí.

Câu chuyện tình huống của Cải và Ngố chính là “thời cơ đục khoét” cho những kẻ tham ô như thầy Lí có cái cớ để ăn tiền, để bòn rút của dân. Cải và Ngố là những nạn nhưng, nhưng đồng thời lại là mồi lửa dẫn đến nạn tham nhũng đến trơ trẽn, thậm tệ. Cả Cải và Ngố đều muốn được giảm hình phạt nên đã lo lót tiền trước. Nhưng ai ngờ thầy ăn tiền cả hai, vẫn xử phạt cả hai; tuy nhiên nương nhẹ kẻ đút lót nhiều tiền hơn.

Đây chính là những hiện tượng nham nhảm trong xã hôi phong kiến ở tầng lớp quan lại. Họ là cha mẹ của dân, phải lo trăm chuyện nhưng lại không hoàn thành trách nhiệm; ngược lại bòn rút của dân đến thê thảm.

Câu chuyện cười “Nhưng nó phải bằng hai mày” không những gây cười ở tình huống xử phạt của thầy Lí mà còn muốn hướng đến tệ nạn tham nhũng, vơ vét của dân quá tàn nhẫn của quan lại. Bộ mặt nhơ nhuốc của thấy Lí nói riêng và của quan lại phong kiến nói chung được lột tả một cách chân thực qua cách xử kiện lố lăng của thầy Lí.

Trong xã hội phong kiến, tiền bạc dường như là thước đo của công lí, dồn người nông dân vào bước đường cùng. Chính dân là những nạn nhân, là chất xúc tác tạo nên những tệ nạn không đáng có trong xã hội. Và nó tạo thành thói quen khó bỏ cho những bọn tham quan ô lại.

Câu chuyện “Nhưng nó phải bằng hai mày” lên án một bộ phận, tầng lớp quan lại thối nát trong xã hội coi đồng tiền là tất cả; đồng tiền có thể đổi trắng thay đen, xoay chuyển công lí. Đó là những người sẵn sàng đẩy dân đen vào những con đường trái ngang và bất hạnh.

Như vậy “Nhưng nó phải bằng hai mày” đã để lại trong lòng người đọc nhiều bài học cũng như nhiều cách nhìn nhận mới về bọn quan lại trong xã hội phong kiến. Nhân dân muốn ổn định nhưng họ lại đục khoét, vơ bét một cách trắng trợn như thế. Đó cũng chính là thông điệp mà dân gian muốn nhắn gửi.

Suy nghĩ của em về vấn đề tham những trong truyện cười “Nhưng nó phải bằng hai mày” – bài làm 2

Truyện cười  – là những câu truyện khiến chúng ta cười, khiến ta có những tiếng cười sảng khoải và thấy thoải mái khi đọc những chuyện cười vui, nhưng bên cạnh đó có những câu truyện cười mang cho ta rất nhiều ý nghĩa, bài học, trong câu chuyện  “Nhưng nó phải bằng hai mày” là lời đả kích, chấm biếm, lên án của dân gian đối với tầng lớp quan lại trong xã hội phong kiến,  sự tham lam, tham nhũng được phản ánh qua câu chuyện trên.

Trong chuyện kể về Cải và Ngô, hai người đàn ông này đã đánh nhau và dẫn đến sự việc là đưa nhau đi kiện, qua câu chuyện này ta hiểu được phần nào sự tham nhũng của các quan lại thời đó, cả hai người này đều lo lót cho quan để đỡ bị đánh đau, câu chuyện phản ánh vô cùng chân thực và rõ nét xã hội phong kiến thời bấy giờ.

Xem thêm:  Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ

Vì đã đưa cho thầy Lý 5 đồng nên Cải yên tâm trong bụng là sẽ bị xử nhẹ, Ngô cũng rất yên tâm thì cũng đã lo lót cho thầy Lý 10 đồng. Khi xét xử, thầy Lý đã xử nhẹ cho cả Cải và Ngô, và phạt Cải 10 roi, lúc đó Cải đã xòe 5 ngón tay của mình nhắc thầy Lý là đã lo lót số tiền 5 đồng từ trước, Thầy Lý lấy bàn tay trái úp lên bàn tay phải, ý nói rằng Ngô đã đưa số tiền gấp đôi, lúc này Cải sửng sổ lên. Tình huống gây cười nhất lại giàu sức châm biếm là khi thầy Lý nói “Tao biết mày phải, nhưng nó phải bằng hai mày” đây là  một câu nói ám chỉ, có ý bảo rằng mày đã lo lót rồi nhưng đứa khác còn lo lót gấp đôi mày.  Lúc này dường như đồng tiền quyết định cả công lý và công bằng, không quan trọng ai đúng ai sai mà có tiền sẽ thắng.

Trong câu truyện này Cải và Ngố là những nạn nhân  nhưng đồng thời cũng là mồi lửa dẫn đến việc tham nhũng của thầy Lý, cả hai tự nhiên lại mất tiền mà vẫn bị phạt, chỉ là nhiều tiền hơn sẽ bị phạt ít hơn thôi, chính Cải và Ngô đã tạo thời cơ cho kẻ tham ô, nham nhũng như thầy Lý.

Hiện tượng tham nhũng là hiện tượng không còn xa lạ với tầng lớp quan lại trong xã hội phong kiến, đáng nhẽ ra họ phải lo cho dân, lo lỗi lo của dân, nhưng đây ho chỉ tìm cách bòn rút của dân, làm nhân dân khổ cực.

Qua câu chuyện  “Nhưng nó phải bằng hai mày” đã gây cho chúng ta tiếng cười ở tình huống thầy lý xử phạt. Ngoài ra câu truyện còn lột tả chân thực nhất cách xử kiện không công bằng của thầy Lý, không  biết đúng sai thế nào, ai nhiều tiền hơn sẽ thắng, đây là tệ nạn tham nhũng, vơ vét của cải của nhân dân của thầy Lý nói riêng và quan lại thời phong kiến nói chung. Trong xã hội phong kiến, thước đo công lý dường như chính là đồng tiền, người nông dân là khổ càng khổ hơn, họ chính là nạn nhân, đôi khi là chất xúc tác tạo nên những tệ nạn đó, và chúng đã trở thành những thói quen khó bỏ của bọn quan lại tham ô.

Câu truyện lên án bộ phận quan lại thối nát, coi đồng tiền là trên hết, không màng tới công lý, đổi trắng thay đen, chỉ để ý đến tiền bạc, những tham quan đó đã đẩy người nông dân vào con đường khổ cực. bất hạnh.

Qua câu truyện“Nhưng nó phải bằng hai mày” để lại trong lòng người đọc rất nhiều bài học và cho chúng ta hiểu thêm về bọn quan lại trong xã hội phong kiến, qua câu chuyện dân gian muốn nhắn gửi thông điệp là nhân dân muốn có một cuộc sống ổn định nhưng lại bị vơ vét, đục khoét một cách trắng trợn của quan lại thời phong kiến.

Suy nghĩ của em về vấn đề tham những trong truyện cười “Nhưng nó phải bằng hai mày”- bài làm 3

Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, truyện cười chiếm một vị trí vô cùng quan trọng, mỗi câu chuyện đem đến cho người đọc những tiếng cười với những cung bậc khác nhau: tiếng cười hài hước, dí dỏm, tiếng cười mỉa mai, châm biếm, đả kích, có cả tiếng cười phê phán lật tẩy… Nhưng nó phải bằng hai màv là tiếng cười như một đòn roi đối với nạn tham nhũng trong việc xử kiện của bọn quan lại trong xã hội phong kiến suy tàn.

Câu chuyện kể về việc hai người nông dân là Cải và Ngô đánh nhau rồi cùng nhau đi kiện. Cải sợ kém thế lót trước năm đồng, Ngò lo lót mười đồng. Khi xứ kiện thầy Lí xử nhẹ cả hai, vẫn phạt Cải chục roi. Cải xòe năm ngón tay ngụ ý nhắc thầy lí số tiền đã lo lót. Nhưng thầy Lí lấy năm ngón tay của bàn tay trái úp lên mặt của bàn tay phải, ám hiệu số quan tiền Ngò đã lo lót lớn gấp đôi. Hài hước nhất là thầy Lí còn nói: “Tao biết mày phải, nhưng nó phải bằng hai mày”.

Qua cách xử kiện và qua lời nói của thầy Lí, ta thấy trong thời phong kiến suy tàn, với nạn tham nhũng nặng nề, chân lí bị bóp méo, công lí bị thiên lệch trắng trợn. Cái chất hài hước trong nụ cười dân gian được tạo bởi nghịch lí giữa cái tính duy nhất của “lẽ phải” với cái có thể so sánh song hành: “Mày phải, nhưng nó còn phải bằng hai mày”.

Câu chuyện ở đây không chỉ dừng lại ở tiếng cười hồn nhiên nữa mà đó là tiếng cười đả kích và châm biếm, tiếng cười như một đòn roi quất thẳng vào mặt bọn quan lại, công lí không có chỗ đứng trong, tiền bạc trở thành một vũ khí sắc nhọn nhất trong mọi mối quan hệ. Qua việc xử kiện, ta thấy được bộ mặt nhơ nhuốc của thầy Lí nói riêng và của bọn quan lại nói chung, đó là tệ tham nhũng, là nạn đục  khoét những người dân nghèo vô tội.

Xem thêm:  Cảm nhận của bạn về truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam

Đúng như lời của một bài ca dao xưa:

“Con ơi,nhớ lấy câu này

Cướp đêm là giặc cướp ngày là quan”

Tuy nhiên, Cải và Ngô đáng thương song thật đáng giận. Trước thực tế hai người đánh nhau, cả hai đều muốn đổ tội cho nhau nên mới cùng đến hối lộ thầy Lí mong giảm tội cho mình, đổ tội cho người. Thế cho nên mới nảy sinh thói xấu của quan tham, tạo điều kiện cho thói đục khoét. Nhưng quan trọng hơn, là chính những người bình dân này đã tạo ra cái cảnh đổi trắng thay đen: “Nén bạc đâm toạc tờ giấy”.

Ngày nay, toàn Đảng, toàn dân ta đang nêu cao tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, sống trong sạch, giản dị, chí công vô tư. Chúng ta đang tích cực đấu tranh chông tham nhũng.

Đây là một cuộc chiến gian nan, trường kì và vô cùng phức tạp, đòi hỏi tất cả mọi người, từ thầy Lí đến Cải và Ngô, từ lãnh đạo đến nhân dân đều phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.

Hơn bao giờ hết, nhân dân ta đều đã hiểu rằng, nếu không đẩy lùi được nạn tham nhũng thì chẳng những kinh tế đất nước không thoát được khỏi đói nghèo, mà lẽ phải, sự thật, công lí đều bị bóng đen của đồng tiền bao phủ. Là học sinh, chúng ta cũng phải sớm có ý thức chống tham nhũng, xây dựng xã hội Việt Nam trong sạch và văn minh.

Suy nghĩ của em về vấn đề tham những trong truyện cười “Nhưng nó phải bằng hai mày”- bài làm 4

Kho tàng truyện cười Việt Nam cực kì phong phú về đề tài, được chia làm hai loại là truyện khôi hài và truyện trào phúng. Truyện khôi hài chủ yếu nhằm mục đích giải trí là chính, tuy vậy nó vẫn có ý nghĩa giáo dục nhẹ nhàng. Truyện trào phúng có mục đích đả kích, phê phán, đối tượng phần lớn là các nhân vật thuộc tầng lớp trên trong xã hội phong kiến xưa kia. Cũng có khá nhiều truyện cười phê phán thói hư tật xấu thường thấy trong cuộc sống. Nhưng nó phải bàng hai mày và Tam đại con gà là truyện cười thuộc loại trào phúng, phê phán đám quan lại tham nhũng và những thầy đồ dốt nát.

Cốt truyện đơn giản : Hai người hàng xóm đánh nhau rồi mang nhau đi kiện. Tuy vậy, truyện được xây dựng thành một màn hài kịch hoàn hảo với hai yếu tố then chốt dẫn tới sự hình thành và phát triển mâu thuẫn. Đó là lí trưởng nổi tiếng xử kiện giỏi và hai đương sự Ngô, Cải, ai cũng muốn giành phần thắng nên đều đút lót cho lí trưởng.

Mâu thuẫn bắt đẩu phát sinh khi lí trưởng đột ngột tuyên bố đánh phạt Cải mười roi. Buồn cười ở chỗ là hai nhân vật một bên thì chủ động, còn bên kia hoàn toàn bị động. Một bên cứ kết án, một bên xin xét lại. Động tác và lời nói của hai người hoàn toàn trái ngược nhau. Màn kịch khép lại bằng câu kết luận chắc nịch của lí trưởng: Tao biết mày phải… nhưng nó lại phải… bằng hai mày. Lời nói ấy đã vạch trần thủ đoạn của viên lí trưởng mà dân gian đã chỉ ra bằng câu thành ngữ : đòn xóc hai đầu.

Lí trưởng là người đứng đầu trông coi việc hành chính trong làng. Viên lí trưởng trong truyện nổi tiếng xử kiện giỏi. Song cái tiếng tăm ấy lại hoàn toàn đối lập với thực chất bên trong. Ngô và Cải đều phải lo đút lót trước cho lí  trưởng. Sự công bằng, lẽ phải – trái, không có ý nghĩa gì ở chốn công đường Khi lí trưởng xử kiện..Lẽ phải ở đây thuộc về kẻ nhiều tiền, nhiều lễ vật lo lót. Đồng tiền đã ngự trị chốn công đường, bất chấp công lí. Đúng là: Nén bạc đâm toạc tờ giấy và Cải, Ngô là các nhân vật bi hài, vừa đáng trách, đáng cười, vừa đáng thương.

Thủ pháp trào lộng của truyện được thể hiện bằng những cử chỉ, hành động, lời nói gây cười của các nhân vật.

Cử chỉ, hành động của các nhân vật trong truyện này giống như cử chỉ và hành động của các nhân vật trong kịch câm, chứa đựng nhiều ý nghĩa. Khi bị lí trưởng ra lệnh đánh đòn, Cải vội xòe năm ngón tay, ngẩng mặt nhìn thầy lí, khẽ bẩm. Cử chỉ ấy như muốn nhắc khéo lí trưởng về số tiền mà cải đã lo lót trước và anh ta trông đợi sự “nhớ ra” của lí trưởng về lời cam kết rằng lẽ phải sẽ thuộc về mình. Thầy lí cũng xòe nầm ngón tay trái úp lên trên năm ngón tay mặt, cử chỉ ấy ngầm thông báo với Cải rằng “lẽ phải” của thằng Ngô nhiều gấp đôi, nên đương nhiên phần thắng sẽ thuộc về hắn.

Xem thêm:  Nghị luận xã hội về tác dụng của việc đọc sách

Lẽ phải (trừu tượng) được tính bằng năm ngón tay (cụ thể), hai lần lẽ phải được tính bằng mười ngón tay. Điều thú vị mà tác giả dân gian dành cho người đọc là: ngón tay của Cải trở thành ‘‘kí hiệu” của tiền tệ và hai bàn tay úp vào nhau của quân cũng là “kí hiệu” biểu thị cho lượng tiền đút lót của Ngô.

Truyện còn dùng hình thức chơi chữ để gây cười. Từ phải trong truyện này đa nghĩa. Nghĩa thứ nhất chỉ lẽ phải, chỉ cái đúng, người đúng, đối lập với cái sai, người sai. Nghĩa thứ hai chỉ điều bắt buộc, nhất thiết phải có, tức là mức tiền lo lót. Lời lí trưởng: Tao biết mày phải… nhưng nó lại phải… bằng hai mày lập lờ cả hai nghĩa ấy. Không phải ngẫu nhiên, vế thứ hai trong lời thầy lí lại được dùng để đặt tên cho truyện này.

Ở đây, ta thấy ngôn ngữ lời nói và ngôn ngữ động tác thống nhất với nhau, có giá trị ngang nhau. Ngồn ngữ bằng lời nói là ngôn ngữ công khai, nói cho tất cả những người có mặt cùng nghe. Ngôn ngữ bằng động tác là thứ ngôn ngữ “bí mật”, chỉ có người trong cuộc (thầy lí và Cải) mới hiểu được.

Hai thứ ngôn ngữ ấy làm rõ nghĩa cho nhau để chỉ ra thực chất của sự nổi tiếng xử kiện giỏi của viên lí trưởng nọ.

Truyện rất ngắn, kết thúc bất ngờ nhưng nó nói đủ những điều muốn nói và tiếng cười vừa giòn giã, thâm thúy cũng đồng loạt cất lên.

Suy nghĩ của em về vấn đề tham những trong truyện cười “Nhưng nó phải bằng hai mày”- bài làm 5

Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam có biết bao tác phẩm đã đi vào lòng người đọc, trong đó không thể không nói đến truyện cười. Một trong những tác phẩm truyện cười đáng chú ý đó là “ Nhưng nó phải bằng hai mày ” đã vạch trần được lối xử kiện vì tiền của quan lại ngày xưa.

Làng kia có một viên lí trưởng nổi tiếng xử kiện giỏi. Một hôm Cải và Ngô đánh nhau rồi mang nhau đi kiện. Cải sợ mình kém thế nên phải lót trước cho thầy lí năm đồng. Ngờ đâu Ngô biện chè lá những mười đồng. Khi xử kiện thầy phán:

– Thằng Cải đánh thằng Ngô đau hơn, phạt một chục roi. Cải vội xòe năm ngón tay nhìn thầy lí khẽ bẩm:

– Xin thầy xét lại, lẽ phải thuộc về con mà !

Thầy lí cũng xòe năm ngón tay trái úp lên năm ngón tay mặt, nói:

– Tao biết mày phải… nhưng nó lại phải… bằng hai mày ! 

Bằng sự kết hợp lời nói với cử chỉ, lối chơi chữ độc đáo, kết cấu chặt chẽ cộng với kết thúc bất ngờ, truyện đã vạch trần được lối xử kiệ vì tiền của quan lại. Các tác giả dân gian đã thành công trong việc xây dựng mâu thuẫn gây cười giữa thực tiễn việc quan làm với yêu cầu quan có được thể hiện rõ qua câu “ … nhưng nó lại… phải bằng hai mày! ” . Câu chuyện đã khép lại nhưng cũng đã trao cho ta những tiếng cười sảng khoái sau những giờ phút lao động, học tập mệt mỏi . Nội dung câu chuyện muốn phê phán những tên lại quan tham ô nhưng lại được tiếng xử kiện giỏi cũng góp phần tạo nên tiếng cười. Qua câu chuyện, ta thấy rõ được những tên quan xử kiện vì tiền là mối hiể họa đối với xã hội, người cũng xưa có ý khuyên ta không nên hối lộ để rồi chuốc lấy hoàn cảnh dở khóc dở cười như nhân vật Ngô và phải luôn cẩn thận trước các vụ kiện.
Truyện cười dân gian luôn là món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống cộng đồng của người dân Việt Nam, đặc biệt “ Nhưng nó phải bằng hai mày ” sẽ luôn nhắc nhở chúng ta giá trị thực sự của lẽ phải chỉ có một, không nên hối lộ để rồi tiền mất tật mang.

 

Bài liên quan

Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua bài “Cảnh ngày hè”

Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua bài “Cảnh ngày hè”

Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua bài “Cảnh ngày hè” – Bài làm 1 Nguyễn…
Triết lý nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ “Nhàn”

Triết lý nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ “Nhàn”

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) sống gần trọn một thế kỉ đầy biến động…
Tìm hiểu truyện cổ tích Tấm Cám

Tìm hiểu truyện cổ tích Tấm Cám

Tìm hiểu truyện cổ tích Tấm Cám – Bài làm 1 Đã là người Việt Nam,…
Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi

Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi

Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi – Bài…

Bình luận

Địa chỉ email của bạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *